34. Tâm được khai minh
Trong phẩm này, ngài Di Lặc lãnh hội được ý chỉ của Phật, tâm được khai minh. Phật lại ban lời dạy: một là đoạn hoặc chướng niệm Phật, biết khổ tu thiện; hai là tự lợi, lợi tha, lần lượt cứu vớt nhau; ba là lại dạy về quả báo thù thắng của cõi Cực Lạc; bốn là đoạn trừ nghi ngờ để khỏi bị sanh vào biên địa.
Chánh kinh: Ngài Di Lặc bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành, [chúng con] đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ. Phật là pháp vương, tôn quý, cao siêu hơn các thánh, quang minh chiếu tột, thấu suốt vô cực, làm thầy của khắp hết thảy trời người. Nay được gặp Phật, lại nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ, không ai chẳng hoan hỷ, tâm được khai minh.
Giải: Ngài Di Lặc lãnh ngộ lời Phật, tự mừng vui sâu xa, tỏ bày lời tán tụng bằng cách bạch rằng: ‘Lời Phật dạy răn rất sâu, rất lành’.
Hai chữ ‘giáo giới’ (dạy răn) được sách Câu Xá Giới Phẩm Tụng Sớ giảng: ‘Giáo là dạy dỗ khiến người tu thiện; Giới là răn đe khiến người đoạn ác. Ðoạn ác tu thiện nên gọi là giáo giới’.
Sách Hội Sớ lại nói: ‘Giáo là lời người trên bảo kẻ dưới. Giới là ngăn chặn, ước thúc. Lời nói thấu triệt thật lý nên bảo là “rất sâu”, chuyển phàm thành thánh nên bảo là “rất lành”.
Pháp âm thấm nhuần rộng rãi, khiến cho khắp mọi người nghe ‘đều được nhờ từ ân giải thoát ưu khổ’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Giải thoát ưu khổ là được nghe pháp yếu dứt bặt những nỗi lo trôi nổi, no say pháp lạc, thoát khổ sanh tử’. Ý nói: Ðược nghe pháp yếu nên dứt được nỗi lo bị trôi nổi trong sáu đường; nếm no nê pháp lạc nên trừ được cái khổ sanh tử.
‘Phật là pháp vương’ là như kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương đã chép: ‘Như Phật là vua của các pháp’. Như Lai tự tại nơi pháp nên được xưng tụng là ‘pháp vương’. Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có câu: ‘Ta làm pháp vương tự tại nơi pháp’. Ta là lời đức Thích Ca tự xưng. Chữ ‘các thánh’ chỉ các bậc thánh nhân đã đoạn hoặc, chứng lý từ Sơ Quả của Tiểu Thừa trở lên và từ Sơ Ðịa của Ðại Thừa trở lên. Phật là đạo sư của cả chín cõi, là bậc tôn quý nhất trong các thánh nên ngài Di Lặc bảo Phật ‘tôn quý, cao siêu hơn các thánh’.
Quang minh của Phật chiếu tột, suốt thấu chẳng có ngằn hạn nên bảo là ‘quang minh chiếu tột, suốt thấu vô cực’. Ngài Tịnh Ảnh lại giảng là: ‘Quang minh chiếu tột là tự phước thù thắng, thấu suốt vô cực là tự trí thù thắng’. Ngài lại giảng chữ ‘vô cực’ như sau: ‘Danh cảm động mười phương, nhiếp thọ kẻ có duyên nên bảo là vô cùng cực’.
Tổng hợp cả hai cách giải thích này thì hiểu thấu cái Không đến mức vô cực chính là tự trí rốt ráo thông đạt Ðệ Nhất Nghĩa Không, chứng ngộ triệt để lý thể chính là đại trí, cho nên bảo là ‘thù thắng’. Phổ độ chúng sanh hữu duyên trong mười phương chẳng có ngằn hạn thì chính là đại bi. Như Lai từ thể khởi dụng, vận dụng cả Bi lẫn Trí nên diệu dụng vô tận. Như vậy là ngài Di Lặc đã khen ngợi Phật đức: phước lẫn trí đều siêu việt, thù thắng.
Thêm nữa, một trong mười hiệu của Phật là Thiên Nhân Sư. Trên trời, dưới thế chỉ có mình đức Phật là tôn quý. Ngài dạo khắp mười phương làm đại đạo sư nên bảo là: ‘Làm thầy của khắp hết thảy trời, người’.
Kinh dạy: ‘Thân người khó được, Phật khó gặp’ nên ‘nay được gặp Phật’ là điều vui mừng lớn lao.
‘Lại được nghe danh hiệu đức Vô Lượng Thọ’ là như kinh dạy: ‘Tín, huệ, nghe pháp là điều khó nhất trong các điều khó’; huống hồ lại được nghe diệu pháp bất khả tư nghì: sáu chữ hồng danh, Nhất Thừa nguyện hải tối cực viên đốn. Sách Di Ðà Yếu Giải cũng nói: ‘Chẳng luận chí tâm, tán tâm, hữu tâm, vô tâm, hoặc hiểu hay chẳng hiểu, chỉ một phen danh hiệu Di Ðà thoảng qua tai thì dẫu cho ngàn vạn kiếp sau cũng nhờ đó mà được độ thoát’.
Vì thế, pháp này khiến cho hội chúng hoan hỷ, mừng rỡ, khai phát Phật trí, hiểu rõ tự tánh. Bởi vậy, ngài Di Lặc mới bảo: ‘Tâm được khai minh’. Sách Hội Sớ bảo: ‘Khai phát Phật trí, đoạn diệt vô minh nên bảo là khai minh’. ‘Không ai chẳng hoan hỷ’ nghĩa là cả đại hội đều hoan hỷ.
Chánh kinh: Phật bảo ngài Di Lặc:
- Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác. Du bộ tam giới chẳng hề ngăn ngại. Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ. Các ông nên biết mười phương nhân dân từ bao kiếp đến nay xoay vần trong ngũ đạo, ưu khổ bất tuyệt. Lúc sanh ra khổ sở, đớn đau; lúc già cũng khổ sở đớn đau; lúc bịnh khổ sở đớn đau tột bực; lúc chết khổ sở đớn đau tột bực. Xấu ác, hôi thối bất tịnh, có chi đáng vui? Hãy tự quyết đoạn, tẩy trừ tâm cấu, ngôn hạnh trung tín, trong ngoài tương ưng.
Giải: Phật lại dạy bảo ngài Di Lặc lần nữa; trước hết ngài dạy nên tự độ.
Cả hai câu: ‘Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ là cương yếu của toàn bộ giáo lý trong Ðại Tạng. ‘Kính’ là cung kính.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘kính Phật’ như sau: ‘Kính trọng, gánh vác Phật ân thì gọi là kính Phật’.
‘Gánh vác’ nghĩa là đảm đương, nhận lãnh.
Như Lai vạn kiếp huân tu, nhập Phật tri kiến, rồi dùng tri kiến ấy khai thị bọn chúng ta để tất cả đều được ngộ nhập. Dùng Quả Giác của Phật để làm cái nhân tâm của chúng ta thì chẳng phải tốn công suốt cả ba a tăng kỳ, chứng nhập ngay được Phật trí. Ðấy chính là thâm ân của Phật. Bọn chúng ta phải theo đúng lời Phật khai thị, nương vào văn tự Bát Nhã mà quán chiếu hòng chứng nhập Thật Tướng. Ðấy gọi là ‘kính trọng, gánh vác Phật ân’.
Tuân theo những điều Phật dạy răn trong kinh này hầu đoan tâm chánh hạnh, dứt ác tu thiện, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, sanh ngang qua bốn cõi Tịnh Ðộ, chứng trọn vẹn bất thối thì mới là tôn kính Phật một cách chơn thật.
Chữ ‘đại’ (trong ‘đại thiện’) phải hiểu như chữ ‘đại’ được dùng trong từ ngữ ‘đại phương quảng’: dứt bặt các đối đãi nên cưỡng gọi là ‘đại’. Ở đây, kinh nói ‘đại thiện’ nghĩa là điều lành vô thượng. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Tam nghiệp kính phụng mới là “tôn kính”. Dùng cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chính mình để cung kính, phụng sự Như Lai: thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh thì mới gọi là ‘kính Phật’. Chẳng phải như thế tục cứ nghĩ đốt hương, sụp lạy mới là ‘kính Phật’.
Mật tông thường nói: ‘Thanh tịnh tam môn tin Thượng Sư’, ‘dùng thân, khẩu, ý cúng dường Thượng Sư’ cũng là do nghĩa này. Kính Phật như vậy mới thật là ‘đại thiện’. Sách Hội Sớ còn nói: ‘Phật như thuốc Thiện Kiến, thấy nghe đều được lợi ích nên gọi Phật là đại thiện’.
‘Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’: Niệm Phật mới chính là tôn kính, gánh vác Phật ân bởi vì Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh chính là cái ân tối thượng trong những Phật ân.
Lại vì niệm Phật chính là ‘tam nghiệp kính phụng’, thâu nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối; cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều chuyên chú nơi Phật thì mới là quy kính một cách chơn thật.
Nếu muốn chơn thật niệm Phật thì trước hết phải ‘cắt đứt hồ nghi’. Tánh của loài cáo hay nghi ngờ nên mới bảo là ‘hồ nghi’. Hành nhân chẳng dứt nổi nghi thì chẳng dám dũng mãnh tiến lên nên bảo là ‘còn hồ nghi’. Nên biết rằng: Khi chưa đoạn nổi cội nghi thì sẽ khi tin, khi ngờ, nửa tin, nửa ngờ, hoặc miễn cưỡng niệm thử nhưng tâm ý chưa yên; hoặc là miệng tuy niệm Phật mà tâm vẫn hâm mộ tông khác. Ðấy đều chẳng phải là chơn thật niệm Phật.
Nói tóm lại, nghi tình chưa đoạn, chánh tín khó sanh. Tín nguyện khiếm khuyết thì tư lương khiếm khuyết. Vì thế, Phật dạy phải ‘cắt đứt hồ nghi’, ròng rặt niệm Phật, hâm mộ, hăm hở niệm, dốc trọn cả tính mạng mà niệm cho tới chết! Hoa nở gặp Phật ngộ vô sanh nhẫn. Như vậy mới là ‘đại thiện’!
Trên đây, Phật đã dạy đoạn nghi niệm Phật; tiếp đó, ngài lại dạy niệm Phật có thể đoạn nghi. Sách An Lạc Tập viết: ‘Nếu có thể thường tu niệm Phật tam muội thì trừ được tham, sân, si. Chẳng luận hiện tại, quá khứ, tương lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả!’. Ngu si kém trí nên tâm hồ nghi. Niệm Phật trừ nghi nên nghi tình tự đoạn. Hai vị đại sư Liên Trì, Linh Phong đều dạy: ‘Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành Phật’. Ðấy chính là ý nghĩa của câu ‘thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi’ vậy.
Ðối với câu ‘nhổ trừ ái dục’, ngài Cảnh Hưng giảng như sau: ‘Nhổ dục là khiến lìa phiền não’. Trong các nhân của những nỗi khổ, tham dục chính là cội rễ nên Phật khuyên phải đoạn trừ ái dục.
‘Lấp các nguồn ác’: Lấp là ngăn bít. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lấp các nguồn ác là khiến lìa ác nghiệp. Lấp cũng như bít. Ác nghiệp chính là nguồn gốc của ác đạo, nó được gọi là nguồn của các điều ác. Dạy phải đoạn ác nên bảo là lấp’. Ý nói: Dạy ‘lấp các nguồn ác’ là dạy lìa các ác nghiệp vì ác nghiệp khiến người ta phải đọa ác đạo. Ác nghiệp chính là căn cội của các đường ác nên được gọi là ‘nguồn ác’. Bởi thế, phải nên đóng lấp nó.
Ngài Vọng Tây cũng giảng giống vậy: ‘Lấp các nguồn ác là khiến đoạn ác nghiệp. Trôi lăn trong sanh tử là do ác nghiệp làm nguồn cội nên gọi là “nguồn”.
Sách Hội Sớ lại giải thích cách khác: ‘Trong các phiền não, nóng giận là nặng nề nhất nên bảo là “nguồn”; chữ “nguồn” cũng chỉ cho nguồn vô minh. Phật đều đoạn hết cả chẳng để thừa sót gì!’ nên bảo ‘lấp các nguồn ác’.
Ta có thể áp dụng cả hai cách giải thích này chẳng trở ngại gì. Sách Hội Sớ đứng về phía Phật mà giảng, còn những thuyết của ngài Tịnh Ảnh, Vọng Tây… là căn cứ trên việc hành nhân hạ thủ công phu mà luận.
Câu ‘du bộ tam giới chẳng hề ngăn ngại’ được sách Hội Sớ giảng như sau: ‘Thần thông biến hóa chẳng phải suy tính gì, thường thể hội tánh Không nên bảo là du bộ’. Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Trên trời dưới thế, chỉ mình Phật là tôn quý cho nên ngài du bộ tam giới, biến hóa tùy ý chẳng bị ngăn ngại’.
Chữ ‘quái’ trong ‘quái ngại’ (ngăn ngại) có nghĩa là trở ngại, ngăn đón. Trong bản Ngụy dịch của Ðại Tạng Cao Ly, chữ ‘quái ngại’ được ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Môn), còn các bản Ngụy dịch phổ biến ghi là ‘câu ngại’ (chữ Ngại thuộc bộ Thạch) nên các tác phẩm sớ giải của ngài Tịnh Ảnh, Cảnh Hưng cũng như Hội Sớ đều chép là ‘câu ngại’. Ngài Cảnh Hưng giảng: ‘Vô sở câu ngại tức vô sở quái ngại’ (“Chẳng bị kềm giữ, trở ngại” chính là “chẳng bị ngăn ngại”).
Như trên đã nói, tác giả Hội Sớ và ngài Cảnh Hưng đứng về phía Phật để bàn luận là vì họ dùng bản Ngụy dịch để giải thích kinh. Nay căn cứ trên bản hội tập thì ta có thể hiểu là: Người kiêm cả phát Bồ Ðề tâm, niệm Phật được vãng sanh thì nương vào oai thần của Phật sẽ đi hóa độ khắp cả tam giới. Kinh nói: ‘Trong khoảng một niệm, đi qua cả ức na do tha trăm ngàn cõi Phật’. Kinh còn dạy: ‘Tùy ý tu tập, không gì là chẳng viên mãn’. Bởi thế mới ‘chẳng hề ngăn ngại’. Người được vãng sanh sẽ du hành mười phương tuyên thị diệu pháp Di Ðà viên đốn: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, nhằm dẫn dắt kẻ chưa được độ quy hướng Cực Lạc. Vì thế, Phật bảo: ‘Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ’.
Trong đoạn kinh này, nửa đoạn trước, Phật khuyên dụ chúng sanh đoạn hoặc niệm Phật; còn nửa đoạn sau Phật lại khuyên chúng sanh nên biết khổ để tu thiện.
‘Bao kiếp’ tức là thời gian kiếp số lâu xa dằng dặc. Nay bảo là ‘bao kiếp’ là hàm ý: vĩnh cửu của vĩnh cửu, vĩnh cửu vô cực vậy.
‘Ngũ đạo’ tức là năm đường: trời, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục như đã giải thích trong câu ‘chặt ngang năm đường’ ở phần trên.
Theo Hội Sớ, cả đoạn: ‘Các ông… ưu khổ bất tuyệt’ ý nói: ‘Từ bao kiếp đến nay tuy gặp nhiều đức Phật, phát đại tâm, nhưng tu thánh đạo khó được thành tựu nên thường bị chìm đắm, lưu chuyển, mãi đến nay vẫn chưa thoát khỏi sanh tử’.
Theo đó, người gặp được Phật vẫn còn nhiều kiếp trầm luân sanh tử, ưu khổ bất tuyệt thì người chẳng gặp được Phật, ưu khổ còn hơn thế nữa! Bởi đó, kinh dạy: ‘Mười phương nhân dân bao kiếp đến nay’ xoay vần trong năm đường, thường đọa vào tam đồ, đau đớn tột bực, không lúc nào hết.
Ấy là vì sanh, chết, già, bịnh đều rất đau khổ, đều là thuần khổ không vui. Cái thân nghiệp báo của phàm phu ‘xấu ác, hôi thối, bất tịnh’ nào đáng vui chi. ‘Ác’ là xấu ác, hung ác. ‘Thối’ là mùi vị khó ngửi. ‘Bất tịnh’ là chẳng sạch sẽ. Kinh Tâm Ðịa Quán dạy: ‘Tự xem thân mình: ba mươi sáu thứ xấu ác rỉ ra chẳng sạch’.
Ðại Luận kể ra năm thứ bất tịnh: chủng tử, y xứ, đương thể, ngoại tướng và cứu cánh. Chủng tử chính là tinh cha, huyết mẹ. Y xứ là bào thai. Ðương thể là toàn thân. Ngoại tướng là hình hài. Cứu cánh là rốt ráo. Năm thứ đều bất tịnh.
Thập Nghi Luận lại kể ra bảy thứ bất tịnh: một là chủng tử, hai là tánh thọ nhận, ba là trụ xứ, bốn là ăn uống, năm là sơ sanh, sáu là toàn thân, bảy là cứu cánh. Cả bảy thứ ấy đều bất tịnh.
Vì thế, cả thân mình lẫn thân người khác đều chẳng có chỗ nào đáng yêu nổi, thuần khổ không vui, lẽ nên phải chán lìa!
Bởi thế, tiếp đó, Phật dạy: ‘Hãy tự quyết đoạn’. ‘Quyết’ là tâm quyết định. ‘Ðoạn’ là cắt đứt nhân ác. Nhân ác chính là như câu tiếp đó nói rõ: ‘Tâm cấu’. Sách Hội Sớ nói: ‘Tham sân si là tâm cấu (bụi nhơ nơi tâm), trái với ba thứ ấy là tam thiện’. ‘Tẩy’ là rửa sạch. ‘Trừ’ là dứt bỏ. Vì thế, Phật dạy: ‘Tẩy trừ tâm cấu’.
‘Ngôn hạnh trung tín’: Ngôn là lời lẽ; Hạnh là hành động. Sách Tiên Chú viết: ‘Làm đúng như lời nói, lời nói đúng như việc làm thì gọi là trung tín’.
Theo ngài Tịnh Ảnh, trong câu ‘trong ngoài tương ưng’, chữ ‘ngoài’ chỉ lời nói, chữ ‘trong’ chỉ cái tâm. Tịnh Ảnh Sớ ghi: ‘Lời nói là ngoài, tâm là trong. Lời nói chẳng trái với tâm nên bảo là tương ưng’, nghĩa là: tâm, khẩu đồng nhất chính là ‘trong ngoài tương ưng’ (biểu lý tương ưng).
Lời sớ còn giảng rộng: ‘Biểu là biểu hiện, những gì hiển hiện ra ngoài thì đều gọi là biểu’. ‘Hạnh’ cũng là ‘biểu’. ‘Lý’ là nội tâm, trong ngoài như một nên gọi là ‘tương ưng’. Ðấy chính là trực tâm như kinh Tịnh Danh dạy: ‘Trực tâm là đạo tràng’.
Chánh kinh: Người [ấy] đã có thể tự độ lại còn cứu vớt người khác. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy cội lành. Tuy một đời tinh tấn siêng khổ cũng chỉ như khoảnh khắc mà thôi! Thân sau sanh vào cõi Vô Lượng Thọ, khoái lạc vô cực! Vĩnh viễn nhổ được cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý.
Giải: Ðoạn trên đã giảng rõ sanh tử lưu chuyển ưu khổ chẳng ngớt, khuyên ta phải xuất ly. Ðấy là nhàm chán Sa Bà. Còn đoạn này lại khuyên cầu sanh Tịnh Ðộ, chính là ham cầu Cực Lạc.
Sách Di Ðà Yếu Giải lấy ‘chán lìa Sa Bà, vui cầu Cực Lạc’ làm nguyện, lại lấy ‘tín nguyện trì danh’ làm ‘cái nhân chơn thật của Nhất Thừa’. Bởi đó, ta thấy rằng: đức Thế Tôn khuyên dụ chính là vì vãng sanh rất thiết yếu.
Câu ‘người đã có thể tự độ’ nghĩa là độ được chính cái thân mình. Ðây là lời tiếp nối ý câu ‘tẩy trừ tâm cấu, trong ngoài tương ưng’ của đoạn trên. Ðó chính là hạnh tự lợi.
Tiếp đấy, ‘lại cứu vớt người khác’ là hạnh lợi tha. Ðây chính là điểm thứ hai trong lời khai thị của Phật. ‘Cứu’ là cứu độ, tức là lần lượt cứu độ những người khác, hay nói cách khác là ‘chúng sanh vô lượng thệ nguyện độ’.
Phát được cái tâm to lớn ‘tự giác, giác tha’ niệm danh hiệu Phật thì mới khế hợp được tông thú của bản kinh này ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’.
Ðã phát đại tâm thì phải dùng tâm chí thành ‘tích lũy cội lành’ để cầu được diệu quả của bổn nguyện. ‘Cội lành’ có nghĩa như ‘thiện căn’. Kinh Thắng Man quyển thượng dạy: ‘Thiện bổn: bổn cũng là nhân. Muốn dùng cái thiện ấy để làm Bồ Ðề căn nên gọi là thiện bổn’.
Sách Hội Sớ lại viết: “Cầu nguyện” là cái tâm nguyện đuợc vãng sanh. “Thiện bổn” là tên chung của các điều lành, mà cũng chỉ riêng việc xưng danh niệm Phật’ bởi vì xưng danh niệm Phật chính là cội lành của việc vãng sanh Cực Lạc. ‘Tích lũy cội lành’ chính là một bề chuyên niệm.
Tiếp đó, đức Thích Tôn trùng tuyên sự thắng diệu của cõi Cực Lạc, khuyến dụ vãng sanh. ‘Khoảnh khắc’ là một phần bốn tám của một phút, tức là một khoảng thời gian rất nhỏ. Phật khuyên người đời: một đời siêng năng vất vả cũng chỉ như trong khoảnh khắc. Thân sau sanh về Cực Lạc thì cái vui ấy không cùng tận. Sự vui mầu nhiệm vô biên vượt trỗi mười phương, chẳng hề chấm dứt nên bảo là ‘vô cực’.
Trong tác phẩm Khuyến Tâm Vãng Sanh Luận của sa môn Nhẫn Không thuộc tông Thiên Thai có câu: ‘Một trận vinh hoa đời này kết thành khổ quả ức kiếp. Ðời này siêng tu trong khoảnh khắc, nở nhụy giác tam minh’. Ấy là nhân nhỏ quả to, thọ báo dài lâu. Hễ được vãng sanh thì như kinh dạy: ‘Vĩnh viễn nhổ dứt cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý’.
Ngài Linh Chi đã giảng về cõi Cực Lạc như sau: ‘Tịnh độ Di Ðà cảnh giới lạ lùng tuyệt diệu. Thánh hiền cùng hội, nghe pháp ngộ đạo, thọ mạng vĩnh cửu, bất thối Bồ Ðề, chẳng còn có nỗi vui nào khác hơn được niềm vui này. Chỉ không có cái khổ vô thường đã đáng vui rồi, huống là còn có các sự thù thắng, những sự vui ấy chẳng cùng tận!’. Bởi thế, Phật mới khuyên chúng sanh cầu sanh về đó.
Chánh kinh: ‘Ai nấy nên tinh tấn, cầu tâm sở nguyện, chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa: sanh vào biên địa cõi ấy, nơi thành thất bảo. Trong năm trăm kiếp chịu các tai ách’.
Di Lặc bạch rằng: ‘Tuân lời giảng dạy tường tận của Phật, chuyên ròng, siêng năng tu học. Phụng hành đúng như lời dạy, chẳng dám có nghi’.
Giải: Thế Tôn rủ lòng từ đã khuyên đại chúng nên yêu thích cầu sanh Cực Lạc, lại khuyên chúng sanh nên bỏ nghi hoặc để khỏi sanh trong biên địa. Ðấy là điểm thứ tư trong lời khai thị của Phật.
Kinh dạy: ‘Ai nấy nên tinh tấn cầu tâm sở nguyện’, nghĩa là: chúng sanh phải thành kính chuyên tu, nhất tâm tịnh nghiệp.
‘Chẳng được nghi hối, tự tạo thành ương họa’: Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ ‘hối’ như sau: ‘Hối là nghĩ ngược lại’, tức là nghĩ trái lại rồi đâm ra thụt lùi. ‘Quá cữu’ (tạm dịch là ‘ương họa’): Quá là tội, Cữu là ác, là tai họa. Ý Phật khuyên chúng sanh chớ nên nghi hoặc để tự tạo ra tai ương cho chính mình ngõ hầu khỏi phải ‘sanh vào biên địa cõi ấy… chịu các ách nạn’.
‘Biên địa’ còn gọi là ‘nghi thành’ hay Giải Mạn quốc. Sách Tịnh Ðộ Lược Luận viết: ‘Trong năm trăm kiếp thường chẳng thấy nghe Tam Bảo và cõi An Lạc thì gọi là biên địa hoặc là thai sanh’. Gia Tường Sớ ghi: ‘Ở đây, trước hết răn dạy phải đoạn nghi hoặc, dạy rõ: hoài nghi sẽ sanh biên địa, chẳng được gặp Phật, suốt cả năm trăm năm hoa chẳng nở. Hoa chẳng nở thì chẳng thể đến mười phương cúng dường chư Phật’.
Sách Hội Sớ nói: ‘Trước sau chẳng lui sụt thì gọi là tinh tấn. “Cầu tâm sở nguyện” là nguyện cầu vãng sanh. “Nghi hoặc” là chẳng hiểu rõ Phật trí. “Hối” là ác tác: trước tin, sau ngờ, đối với lòng tin hiểu khi trước sanh lòng hối hận, nửa đường bỏ lửng. “Tự tạo thành ương họa” là dẫu “nước ấy chẳng trái nghịch” [gì mình] mà tự cam sanh trong biên địa. “Các ách nạn” là chẳng thấy Tam Bảo, chẳng nghe kinh pháp’. Lời giải thích của Hội Sớ rất tường tận.
Đối với vấn nạn biên địa có thuộc vào ba bậc vãng sanh hay không, sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao đã bàn rất tỉ mỉ. Sách viết:
‘Các kinh nói chẳng giống nhau. Theo như Giác kinh (tức bản Hán dịch) và Ðại A Di Ðà kinh (tức bản Ngô dịch), biên địa thuộc vào trung bối và hạ bối (ý nói: cả trung bối lẫn hạ bối đều có biên địa); còn kinh này (chỉ bản Ngụy dịch) chẳng những không giống thế mà lại còn dạy khác đi. Bởi thế, các sư cũng hiểu khác nhau.
Chẳng hạn như ngài Ðàm Loan, ngài Nguyên Hiểu, ngài Pháp Trụ, ngài Như Trạm… đều cho rằng biên địa chẳng thuộc trong tam bối.
Ngài Nghĩa Tịch, ngài Cảnh Hưng, ngài Long Hưng, ngài Nhân Nhạc… lại nghĩ biên địa gộp trong các bối.
Mỗi vị căn cứ vào một khía cạnh nên các ý kiến ấy chẳng trái nghịch nhau. Nhưng kinh này là bản phiên dịch chính và đại sư Ðàm Loan lại là cao tổ của tông ta nên nay phải thuận theo ý ngài, tức là như ngài đã viết trong sách Lược Luận: “Lại có một thứ vãng sanh cõi An Lạc chẳng thuộc vào trong ba bậc”.
Phàm ba bậc đều là do tín tâm vãng sanh; ấy chính là điều nên khuyên bảo. Biên địa là do tâm nghi mà vãng sanh; ấy chính là điều phải răn dè. Tin, ngờ, khuyên, răn khác nào như trời với đất, lửa với nước làm sao dung được nhau!’
Lời luận của sách rất hay: người đầy đủ tín tâm thì thuộc vào ba bậc vãng sanh, kẻ ôm lòng nghi thì rớt vào biên địa. Do hai tâm chẳng đồng, tất nhiên chỗ sanh về phải khác. Bởi đó, trong hội bản này, ngoài ba bậc vãng sanh ra, kinh dạy rõ về ‘biên địa nghi thành’. Trong phẩm bốn mươi ở phần sau sẽ giảng rõ điều này.
Ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật nên hướng về Phật bạch rằng: ‘Thọ Phật minh hối’ (vâng lãnh lời dạy rõ ràng của Phật). ‘Minh’ tức là trí huệ, hoàn bị, rõ ràng, khai phát. ‘Minh hối’ tức là lời răn dạy có tác dụng khiến đại trí được hiển lộ, khai phát, là lời dạy minh bạch, hoàn bị. ‘Chuyên’ là chuyên nhất, ‘tinh’ là tinh tấn (trong phần chánh kinh chữ ‘chuyên tinh’ được dịch ý là chuyên ròng, siêng năng). ‘Tu’ là tu hành, ‘học’ là học đạo. Kinh Pháp Hoa dạy: ‘Dần dần tu học ắt đều thành Phật’.
‘Phụng hành đúng như lời dạy’: ngài Di Lặc lãnh thọ lời Phật giáo huấn, quyết định tuân hành. Câu ‘Chẳng dám có nghi’ ngụ ý khuyên chúng sanh vâng lãnh lời Phật, dứt bỏ lòng ngờ. Nghi là căn nguyên phát sanh muôn mối lầm lạc nên phải đoạn nghi.