22. Quyết chứng cực quả
Phẩm này tổng kết sự thanh tịnh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc: cảnh và trí ngầm khế hợp nhau, nhân quả đồng nhất. Những người vãng sanh do trong tâm không có ý tưởng phân biệt là lấy hay bỏ nên bên ngoài đều xa lìa các cảnh phân biệt. Do chẳng phân biệt nên thanh tịnh bình đẳng, chỉ thọ hưởng khoái lạc tối thượng, trụ trong chánh định tụ, quyết chứng cực quả: Di Ðà bổn nguyện cứu cánh viên mãn.
Chánh kinh: Lại này A Nan! Cõi nước Phật ấy chẳng có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm; cũng không có danh từ năm, tháng, kiếp số, cũng lại chẳng trụ trước nhà cửa. Hết thảy mọi nơi đã chẳng có tiêu thức, danh hiệu, lại cũng chẳng có phân biệt lấy bỏ, chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng.
Giải: Trong đoạn này, trước hết nói rõ cảnh tướng vô phân biệt; kế đến thuật rõ tâm niệm không phân biệt.
Câu ‘không có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm’ tổng hợp từ năm bản dịch. Hai bản dịch đời Hán và Ngô nói đến mặt trời, mặt trăng, hư không; bản Ngụy dịch chẳng nói rõ là có hay không; bản Ðường dịch và Tống dịch cùng nói chẳng có mặt trời, mặt trăng.
Sách A Di Ðà Sớ Sao bảo: ‘Nếu nói một cách dung hòa thì tuy có mặt trời, mặt trăng, nhưng bị quang minh của Phật và thánh chúng che lấp nên cũng như chẳng có. Xét về mặt lý, phải không có mặt trời, mặt trăng mới hợp lẽ. Vì sao vậy? Từ cõi trời Ðao Lợi trở lên đã không cần đến mặt trời, mặt trăng, huống là cõi Cực Lạc?’ Theo Liên Trì đại sư, xét về mặt lý thì phải không có mặt trời, mặt trăng mới đúng. Hội bản đây lấy ý hai bản Ðường dịch và Tống dịch, nói thẳng là chẳng có mặt trời, mặt trăng, thật phù hợp với ý của Liên Trì đại sư: từ trời Ðao Lợi trở lên, chư thiên còn chẳng cần đến mặt trời, mặt trăng huống hồ là thế giới Cực Lạc?
Bản Hán dịch lại ghi: ‘Quang minh từ trên đảnh của Vô Lượng Thanh Tịnh Phật (tức là A Di Ðà Phật) sáng chói cùng cực; mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đều bị ngưng giữa không trung chẳng xoay chuyển vận hành được nữa, cũng chẳng còn có tinh quang. Các quang minh ấy đều bị khuất lấp chẳng hiện’. Câu này rất phù hợp với cách nói dung hòa của đại sư Liên Trì: quang minh của mặt trời, mặt trăng cõi ấy bị quang minh của các vị thánh che lấp chẳng hiện được như kinh nói: ‘Mặt trời, mặt trăng, lửa, châu đều bị ẩn giấu ánh sáng’.
Phẩm Lễ Phật Hiện Quang trong kinh đây cũng nói: ‘Hết thảy quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát đều bị ẩn lấp, chỉ thấy quang minh của Phật sáng ngời rực rỡ’. Quang minh của Bồ Tát còn bị phủ lấp, huống là quang minh của mặt trời, mặt trăng, tinh tú v.v…Vì vậy, ‘cõi ấy chẳng có tối tăm, ánh lửa, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cảnh tượng ngày đêm’, chỉ luôn sáng chói chẳng có ngày đêm.
‘Cũng chẳng có danh từ năm, tháng, kiếp số’: Trong cõi thế gian này thì phải có năm, tháng, ngày, đêm, kiếp số vì địa cầu, mặt trăng, mặt trời, tinh vân… đều vận hành: tự chuyển hoặc là bị chuyển động (do Thái Dương hệ chứa các tinh tú ấy cũng xoay vần) nên bèn có ngày, đêm, một tháng, một năm, một kiếp v.v… Do đó, năm tháng dần trôi. Còn theo bản Hán dịch: ‘Mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều ngừng giữa hư không chẳng xoay chuyển vận hành được’ thì cõi ấy dẫu có mặt trời, mặt trăng, tinh tú đi nữa nhưng chúng không vận chuyển thì làm sao có ngày đêm sai khác được! Thời gian không biến đổi nên ‘chẳng có danh từ ngày đêm, năm, tháng, kiếp số’. Chỉ do thuận theo các phương khác nên mới bảo là có năm tháng (Ta nên biết rằng: thời gian sanh từ chuyển động. Xét về cội gốc, chuyển động phát sanh từ ý niệm. Do vọng niệm tiếp nối nên có thời gian. Khoa học cận đại đã thừa nhận thuyết của Ái Nhân Tư Ðản (Einstein): thời gian chỉ là do ảo giác của con người. Thuyết này khá phù hợp với điều ta đang bàn ở đây).
Với ý ‘lại cũng chẳng trụ trước nhà cửa’, các bản dịch cũng chẳng hề nói xác quyết là có nhà cửa hay không. Câu kinh:‘Nhà cửa họ ở đều hết sức trang nghiêm, đẹp đẽ hoặc ở trên hư không, hoặc trên mặt đất’ trong phẩm Thọ Dụng Ðầy Ðủ ở phần trước đã nói rõ chẳng phải là nhất định không có nhà cửa; chữ ‘không’ dùng trong đoạn này chỉ có nghĩa là chẳng chấp trước vào tướng nhà cửa. Hội chúng cõi Cực Lạc nghe toàn những âm thanh vô ngã nên tâm họ thanh tịnh một cách tương ứng với điều được nghe, không có các phân biệt. Ðã không có ngã thì làm sao có ý tưởng ‘nhà cửa của mình’? Vì vậy đối với nhà cửa mình ở chẳng hề chấp trước. Do đó, kinh nói: ‘Lại không trụ trước nhà cửa’. Hơn nữa, do nhân và ngã đều không nên mọi thứ cần gì đến ‘tiêu thức, danh hiệu’ (tiêu thức là những biểu tượng nhằm để phân biệt một cá nhân; chẳng hạn như các huy hiệu gia tộc).
Diệu cảnh như vậy chính là do trí và tâm xa lìa ‘phân biệt lấy bỏ’ tạo thành. Tâm tịnh ắt quốc độ tịnh, tâm lìa phân biệt nên cảnh cũng chẳng phân biệt. Tâm ấy, cảnh ấy vốn chẳng phân biệt. Trí cảnh nhất như, tuyệt các trần cấu nên bảo: ‘Chỉ hưởng khoái lạc thanh tịnh tối thượng’ như kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ nói: ‘Chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh’.
Chánh kinh: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thì đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, vì cớ sao? Nếu là kẻ tà định tụ và bất định tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy.
Giải: Ðoạn này nói về quả thành tựu của nguyện hăm chín ‘trụ chánh định tụ’ và nguyện mười hai ‘quyết định thành Chánh Giác’ của đức Di Ðà. Ðiều này chính là cốt lõi của toàn bộ bổn hoài của Phật Di Ðà, là thánh quả của vô lượng diệu hạnh, là trí lực phương tiện đạt đến mức cùng cực, là chỗ rốt ráo của đại nguyện độ sanh.
Kinh văn nhắc đến ba thứ: chánh định, tà định và bất định tụ. ‘Tụ’ có nghĩa là giống nhau, cùng loại. Ba tụ này được các kinh luận của cả Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa để cập đến, nhưng nội dung sai khác rất nhiều:
* Tiểu Thừa như Câu Xá Luận nói: Các thánh giả từ Sơ Quả trở lên thuộc về chánh định tụ, kẻ tạo ngũ vô gián nghiệp thuộc về tà định tụ, còn lại những kẻ khác chẳng thuộc về hai tụ trên thì thuộc về bất định tụ.
* Ðại Thừa lại hiểu tam tụ theo nhiều cách:
a. Trí Ðộ Luận quyển bốn mươi lăm nói: ‘Một là chánh định tụ: quyết định nhập Niết Bàn. Hai là tà định tụ: quyết đọa ác đạo. Ba là bất định’.
b. Thích Ðại Diễn Luận, quyển một bảo: ‘Có ba thuyết:
b.1. Một là trước khi đạt địa vị Thập Tín thì thuộc tà định tụ do chẳng tin vào quả báo của nghiệp. Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) Thập Thánh (Thập Ðịa Bồ Tát) gọi là chánh định tụ do thuộc địa vị bất thối. Thập Tín gọi là bất định tụ do hoặc tiến hoặc thối chẳng quyết định’ (Ðại Thừa Khởi Tín Luận đồng quan điểm này).
b.2. Trước khi đạt Thập Tín và ngay cả địa vị Thập Tín thuộc về tà định tụ. Ðại Quả Giác là chánh định tụ. Tam Hiền, Thập Thánh thuộc về bất định tụ.
b.3. Trước khi đạt đến Thập Tín là tà định tụ, Thập Thánh là chánh định, Thập Tín và Tam Hiền thuộc về bất định tụ’.
Các thuyết bất đồng, Tiểu thừa coi từ Sơ Quả trở lên đã thuộc về chánh định, còn Ðại thừa thì hoặc lấy việc quyết định nhập Niết Bàn, hoặc lấy địa vị từ Tam Hiền trở lên, hoặc địa vị từ Thập Ðịa trở lên, hoặc dùng địa vị Ðại Quả Giác làm tiêu chuẩn phán định chánh định tụ.
Còn về việc kinh này nói chúng sanh cõi Cực Lạc đều trụ trong chánh định tụ, ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘Ðịa vị bất thối nên gọi là chánh định. Chẳng cần biết là Tiểu Thừa hay Ðại Thừa chúng sanh hễ cứ sanh về cõi kia đều trụ trong chánh định’. Ngài Vọng Tây chia sẻ quan điểm này: ‘Hết thảy phàm phu thiện, ác nương nguyện lực của Phật sanh về cõi kia đều ở vào địa vị bất thối nên gọi là chánh định tụ’.
Ngài Cảnh Hưng lại bảo: ‘Hễ sanh về Tịnh Ðộ thì chẳng luận là phàm hay thánh đều quyết định hướng đến Niết Bàn, quyết định hướng đến thiện hạnh, quyết định sanh trong đường lành, quyết định hành lục độ, quyết định được giải thoát, nên chỉ có chánh định tụ không còn có hai thứ kia’. Sách Hội Sớ cũng nghĩ như vậy.
Sách Bình Giải dựa theo ý tổ Thiện Ðạo giải thích như sau: ‘Như Thích Ma Ha Diễn Luận giảng chánh định tụ là từ Tam Hiền, Thập Ðịa cho đến Phật quả; chánh định tụ của Tịnh tông cũng giống như vậy. Dẫu hiện có các địa vị Tam Hiền, Thập Thánh v.v… nhưng cuối cùng đều đạt đến Diệt Ðộ, chẳng qua là chỉ có một cõi Niết Bàn nhưng thị hiện sai biệt. Xét theo một pháp cú thì xét ngay nơi bản tướng, Thập Ðịa, Tam Hiền chính là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’.
Thuyết của sách Bình Giải đã hiển thị sâu xa ý kinh này vì chủ lẫn bạn trong Tịnh Ðộ đều là Ðại Thừa nên đều trụ trong chánh định tụ. Dẫu thị hiện Thập Thánh, Tam Hiền v.v… nhưng về bản thể đều quyết định nhập Niết Bàn, ngay nơi tướng này chính là Pháp Thân. Do đó, tiếp ngay theo câu ‘đều trụ trong chánh định tụ’, kinh nói: ‘Quyết định chứng A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’. Người vãng sanh đều thuộc trong chánh định tụ, quyết định thành Phật, hiển thị sự bất khả tư nghị của Di Ðà đại nguyện đến mức độ cùng cực.
Phẩm này hội tập cả ba bản dịch Ngụy, Ðường, Tống. Câu kinh: ‘Hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh (chữ ‘hoặc sẽ sanh’ lấy từ hai bản dịch đời Ðường và Tống) đều trụ trong chánh định tụ’ hiển thị sâu sắc sự sâu rộng của Di Ðà đại nguyện: Chẳng những người đã vãng sanh Cực Lạc trụ trong chánh định tụ, quyết chứng Vô Thượng Ðạo mà hết thảy những người cầu vãng sanh Cực Lạc trong hiện tại hoặc trong tương lai chỉ cần phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm thì sẽ tương ứng với bổn nguyện của Phật Di Ðà, dẫu ở trong uế độ vẫn còn là phàm phu đầy dẫy, nhưng hễ vãng sanh thì ắt trụ trong chánh định tụ, quyết chứng Bồ Ðề. Ðây thật là điều siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn, dứt bặt đối đãi một cách viên dung, phương tiện rốt ráo.
Bản Ðường dịch lại bảo: ‘Hoặc kẻ sẽ sanh đều sẽ rốt ráo Vô Thượng Bồ Ðề, đến chốn Niết Bàn, vì cớ sao? Nếu là tà định tụ và bất định tụ thì chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy’, ý nói: người sẽ sanh về Cực Lạc đều phải kiến lập chánh nhân vãng sanh. Nương theo chánh nhân ấy thì ắt đạt cái quả vãng sanh, tất nhiên đạt địa vị bổ xứ thành Phật nên kinh bảo: ‘Quyết định chứng A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’. Kẻ tà định tụ và bất định tụ chẳng thể thật vì sanh tử phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật nên ‘chẳng thể biết rõ, kiến lập nổi cái nhân ấy’.
Hơn nữa, Thiện Ðạo đại sư đời Ðường là bậc thâm nhập Kinh tạng đã chỉ rõ đại nguyện ‘nhập chánh định tụ’ của Phật Di Ðà tạo lợi ích cho cả nhân dân cõi Cực Lạc lẫn chúng sanh trong cõi Sa Bà này. Sách Bình Giải viết: ‘Chánh định tụ trong cõi này (Sa Bà) là mật ích (lợi ích ngầm), chánh định tụ cõi kia là hiển ích (lợi ích hiển nhiên)’. Sách còn viết: ‘Mật ích ngay trong đời này chính là giáo nghĩa bất cộng của kim gia (ngài Thiện Ðạo)’.
Ta thấy sách Bình Giải đã cực lực tán dương thuyết của Thiện Ðạo đại sư: người sẽ được vãng sanh tuy thân còn đang ở trong cõi Sa Bà đã được hưởng lợi ích bí mật là nhập vào chánh định tụ; đấy là diệu nghĩa thù thắng bất cộng của tổ sư. Gọi là ‘mật ích’ vì người vãng sanh ngầm được hưởng lợi ích này. Ngay trong kinh Tiểu Bổn cũng có đoạn tương hợp với giáo thuyết này, kinh chép: ‘Nếu có kẻ đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh cõi Phật A Di Ðà thì những người ấy đều đắc bất thối chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’. Rõ ràng, hết thảy những ai phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Ðộ trong quá khứ, tương lai, hiện tại đều được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề; đủ thấy lợi ích thù thắng bất thối chuyển hiện hữu cho suốt cả chúng sanh hai cõi, thật tương đồng với huyền chỉ của đoạn kinh Vô Lượng Thọ đây. A Di Ðà Phật đại nguyện, đại lực chẳng thể nghĩ bàn.
Cho đến phẩm hăm hai này, kinh đã chuyên bàn về sự trang nghiêm nơi y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Ðoạn kinh trên nhằm kết thúc những điều bàn luận ấy.
Những nghĩa lý của kinh văn trong những phần trên đã được sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận quy kết về tự tâm như sau: ‘Các sự trang nghiêm, các việc Phật sự đã nói trên chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, như trăng trong nước, như hình tượng được vẽ ra, như người được hóa hiện bởi huyễn thuật. Chúng đều là do Phật lực tùy tâm của chúng sanh mà xuất hiện. Ta nên biết rằng thần lực của hết thảy chúng sanh và thần lực của Như Lai vốn không hai, không khác. Nếu chẳng có đại nguyện, đại hạnh để phát khởi cái nhân thù thắng thì chẳng biết, chẳng hay, trầm luân muôn kiếp. Nếu có thể trong nhất niệm xoay trở lại nhận rõ cái tánh sáng suốt thì mới hay của gia bảo sẵn có như vào núi báu nhặt của cải vô tận, như vào Hương quốc chạm vào chỗ nào cũng thơm ngát. Phải đạt đến nơi mới ngơi nghỉ, chứ đừng nửa đường bỏ cuộc’.