GIẢI THÍCH: PHẨM VÔ SANH
TAM QUÁN THỨ 26
(Kinh Ma-ha Bát-nhã ghi: Phẩm Vô Sanh)
(Kinh Đại Bát-nhã ghi: Phần 2, Phẩm Viễn Ly thứ 24)
KINH: Bấy  giờ Tuệ mạng Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề rằng: Bồ-tát ma-ha-tát tu  hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp. Thế nào là Bồ-tát? Thế nào là  Bát-nhã ba-la-mật?  Thế nào là quán?
Tu-bồ-đề nói với Xá-lợi-phất: Ông hỏi thế nào là Bồ-tát? Người  phát đại tâm vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ấy gọi là Bồ-tát. Cũng  biết hết thảy pháp, hết thảy chủng tướng, cũng không đắm trước theo đó;  biết sắc tướng không đắm trước, cho đến biết mười tám pháp không chung  cũng không đắm trước.[1]
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào là hết thảy pháp tướng?
Tu-bồ-đề Đáp: Nếu do danh tự nhân duyên hòa hợp biết các pháp là sắc, là hương, vị, xúc, pháp, là 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 45 và 52. 
 
 
* Trang 459 *

trong, là ngoài, là pháp hữu vi, là pháp vô vi; lấy tướng danh tự, ngữ ngôn ấy biết các pháp ấy gọi là biết tướng các pháp. 
Như Xá-lợi-phất Hỏi: Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật?  Xa lìa nên  gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Xa lìa pháp gì? Xa lìa năm uẩn, mười tám giới,  mười hai nhập; xa lìa Thí ba-la-mật cho đến Thiền ba-la-mật; xa lìa nội  không cho đến vô pháp hữu pháp không. Vì vậy nên xa lìa gọi là Bát-nhã  ba-la-mật.
* Lại nữa, xa lìa bốn niệm xứ, cho đến xa lìa mười tám pháp  không chung; xa lìa Nhất thiết trí. Do nhân duyên ấy nên xa lìa gọi là  Bát-nhã ba-la-mật.
Như Xá-lợi-phất Hỏi: Thế nào là quán? Xá-lợi-phất! Bồ-tát  ma-ha-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật quán sắc chẳng phải thường chẳng  phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng  phải vô ngã, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng,  chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác, chẳng phải vô tác, chẳng phải tịch  diệt, chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải lìa, chẳng phải chẳng lìa;  thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Thí  ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật, nội không cho đến vô pháp hữu pháp  không, bốn niệm xứ cho đến mười tám pháp không chung, hết thảy
 
* Trang 460 *

môn Tam  muội, hết thảy môn Đà-la-ni cho đến Trí nhất thiết chủng, quán chẳng  phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải vui, chẳng phải khổ, chẳng  phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không,  chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác, chẳng phải vô  tác, chẳng phải tịch diệt, chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải lìa,  chẳng phải chẳng lìa. Xá-lợi-phất! Ấy gọi là Bồ-tát ma-ha-tát khi tu  hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp.
LUẬN:  Hỏi: Nghĩa Bồ-tát, nghĩa Bát-nhã ba-la-mật, nghĩa các quán, trên kia đã hỏi, nay cớ sao còn hỏi?
Đáp: Trước đã đáp ví dụ cây lớn, không thể chặt một nhát đứt được, việc ấy khó, nên lại hỏi tiếp.[1]
* Lại nữa, Bát-nhã ba-la-mật có vô lượng nghĩa, như trong phẩm Đàm Vô Kiệt nói:[2] Bát-nhã ba-la-mật như nước biển lớn vô lượng, như núi Tu-di đủ thứ nghiêm sức,[3] thế nên hỏi.[4] Lại, lời hỏi ấy tuy đồng mà đáp nghĩa có nhiều sai khác.
* Lại nữa, chư Phật vì dứt tâm ái trước pháp (pháp ái) nên  không lập kinh sách, cũng không trang sức ngôn ngữ, chỉ vì tế độ chúng  sanh, tùy theo người đáng độ mà nói; như ao nước lớn tốt trong mát, vô  lượng chúng sanh trước sau đi đến uống no rồi đi, người nghe pháp cũng  như vậy. Phật trước tiên nói Bồ-tát, Bát-nhã và quán, người đến trước  được giải ngộ rồi đi, người đến sau chưa nghe, thế nên lại hỏi tiếp. 
 
[1] Đại trí độ luận,  quyển 52, Phẩm mười vô thứ 25, tr. 431b16-b20: Ví như cây lớn rễ sâu,  không thể chặt một nhát mà đứt, phải dùng sức chặt nhiều búa mới đứt  được. Bồ-tát không cũng như vậy, không thể nói một lần là được, vì vậy  nên phải phân biệt rộng nói; quyển 42, Phẩm tập tán thứ 9, nghĩa Bát-nhã  ba-la-mật; tham khảo T. 8: Đại phẩm Bát-nhã kinh (大品般若經), quyển 7, phẩm mười vô thứ 25 (十無品第25), tr. 269c24-270a12; T. 8: Phóng quang Bát-nhã kinh (放光般若經, quyển 5, Bất khả đắc tam tế phẩm 26 (不可得三際品第26), tr. 35b20-c4; T. 8: Quang tán Bát-nhã kinh (光讚般若經), quyển 9, Đẳng tam thế phẩm 23 (等三世品第23), tr. 207b8-25. 
[2] T. 8: Tiểu phẩm bát nhã ba la mật kinh (小品般若波羅蜜經), quyển 10, Đàm vô kiệt phẩm 28 (曇無竭品28), tr.584a20,
T. 8: Ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh (Mahāprajñāpāramitā–sūtra-摩訶般若波羅蜜經), quyển 27, Pháp thường phẩm 89 (法尚品89), tr.421b24-25,
T.25: Đại trí độ luận (Mahāprajñāpāramitā-śāstra-大智度論), quyển 99, Tát đà bà luân phẩm 88 (薩陀波崙品88), tr.744c11-12. 
[3] T. 8: Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), quyển 27, tr. 423a26b21; T. 8: Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật kinh (小品般若波羅蜜經), quyển 10, tr. 586a5b5. 
[4] T. 8: Đại phẩm Bát-nhã kinh (大品般若經), quyển 27, tr. 423b8-9; T. 8: Phóng quang Bát-nhã kinh (放光般若經), quyển 20, tr. 146b11-13; T. 8: Tiểu phẩm Bát-nhã (小品般若經), quyển 10, tr.  586a13-14. 
 
 
* Trang 461 *

Bồ-đề (Bodhi) có  ba là, A-la-hán Bồ-đề, Bích-chi Phật Bồ-đề và Phật Bồ-đề. Không học mà  trí tuệ thanh tịnh không nhơ nên gọi là Bồ-đề. Bồ-tát tuy có trí tuệ lớn  mà phiền não và tập khí chưa hết, nên không gọi là Bồ-đề. Trong đây chỉ  nói một thứ đó là Phật Bồ-đề.
Tát-đỏa (sattva), Trung Hoa dịch là Chúng sanh; chúng sanh ấy vì đạo Vô-thượng mà phát tâm tu hành.
* Lại nữa, Tát-đỏa gọi là Đại tâm; người ấy phát đại tâm cầu Vô-thượng  Chánh đẳng Chánh giác mà chưa được, vì vậy nên gọi là Bồ-đề Tát-đỏa  (bodhisattva). Phật đã chứng được Bồ-đề ấy, không gọi là Bồ-đề Tát-đỏa,  vì đại tâm đã đầy đủ. Các nghĩa khác về Bồ-tát như trước đã nói rộng.[1]
* Lại nữa, trong đây Phật tự nói nhân duyên: Người ấy vì Phật đạo nên  tu hành; biết tướng hết thảy các pháp, cũng chẳng đắm trước.
Tướng các pháp là cánh cửa để có thể biết các pháp là sắc, là tiếng  v.v... Lược nói nghĩa Bồ-tát là trước tiên biết mỗi mỗi tướng của các  pháp, như đất tướng cứng, vậy sau mới biết tướng rốt ráo không; đối với  hai thứ trí tuệ ấy cũng không đắm trước, chỉ muốn độ chúng sanh. Bồ-tát  được trí tuệ như vậy, xa lìa hết thảy pháp tướng riêng, như đối với sắc  lìa sắc, lìa sắc tức là tự tánh không. Xa lìa là tên khác của không.
Bồ-tát được Bát-nhã ba-la-mật, tâm xa lìa hết thảy pháp, vì cớ sao? Vì thấy tội lỗi của hết thảy pháp.
A-la-mật, Trung Hoa dịch là xa lìa. Ba-la-mật (pāramitā), Trung Hoa dịch là đáo bỉ ngạn. Hai âm ấy gần nhau, nghĩa hợp 
 
[1]  Đại trí độ luận, quyển 4, tr. 86a13-16: Bồ-đề gọi là đạo chư Phật,  tát-đỏa gọi là chúng sanh, hoặc gọi là đại tâm. Người ấy muốn được trọn  cả công đức của Phật đạo, tâm kia khôgn thể dứt, không thể phá; như núi  kim cang, nên gọi là đại tâm.  
 
 
* Trang 462 *

nhau, cho nên lấy A-la-mật giải thích Ba-la-mật.
Xa lìa những pháp gì? Xa lìa năm uẩn, mười tám giới, mười hai nhập, cho  đến Nhất thiết trí. Vì xa lìa các pháp ấy nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật.  Như Thiền ba-la-mật hay điều phục tâm người thì Bát-nhã ba-la-mật hay  dạy người xa lìa các pháp.
Quán là không quán các pháp thường vô thường, như trước đã nói.[1]
KINH: Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Nhân duyên gì sắc chẳng sanh là  chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh là chẳng phải thức,  cho đến Trí nhất thiết chủng chẳng sanh là chẳng phải Trí nhất thiết  chủng?
Tu-bồ-đề Đáp: Sắc, sắc tướng không, trong sắc không không có  sắc không có sanh. Vì nhân duyên ấy nên sắc chẳng sanh là chẳng phải  sắc; thọ, tưởng, hành, thức, thức tướng không, trong thức không không có  thức, không có sanh; vì nhân duyên ấy nên thọ, tưởng, hành, thức chẳng  sanh là chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.
Xá-lợi-phất! Thí ba-la-mật, Thí ba-la-mật tướng không, trong  Thí ba-la-mật không, không có Thí ba-la-mật, không có sanh; Giới  ba-la-mật, Nhẫn ba-la-mật, Tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã  ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật tướng không, trong Bát-nhã 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 1, 15, 18, 23, 26, 31, 37 và 43. 
 
 
* Trang 463 *

ba-la-mật  không không có Bát-nhã ba-la-mật, không có sanh. Do nhân duyên ấy nên,  Xá-lợi-phất! Bát-nhã ba-la-mật chẳng sanh là chẳng phải Bát-nhã  ba-la-mật; nội không cho đến vô pháp hữu pháp không, bốn niệm xứ cho đến  mười tám pháp không chung, Trí nhất thiết chủng cũng như vậy. Do nhân  duyên ấy nên nội không chẳng sanh là chẳng phải nội không, cho đến Trí  nhất thiết chủng chẳng sanh là chẳng phải Trí nhất thiết chủng.
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Vì nhân duyên gì ông nói sắc chẳng hai là  chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hai là chẳng phải thức, cho  đến Trí nhất thiết chủng chẳng hai là chẳng phải Trí nhất thiết chủng?
Tu-bồ-đề đáp rằng: Sở hữu sắc, sở hữu chẳng hai; sở hữu thọ, tưởng,  hành, thức, sở hữu chẳng hai. Tất cả pháp ấy đều chẳng hợp, chẳng tán,  không sắc, không hình, không đối, một tướng đó là vô tướng. Mắt cho đến  Trí nhất thiết chủng cũng như vậy. Do nhân duyên ấy nên, Xá-lợi-phất!  Sắc chẳng hai là chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng hai là  chẳng phải thức, cho đến Trí nhất thiết chủng chẳng hai, là chẳng phải  Trí nhất thiết chủng.[1]
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Do nhân duyên gì nên nói sắc ấy vào pháp số không hai; thọ, tưởng,  
 
[1] T. 8: Ma ha bát nhã ba la mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), quyển 7, Vô sanh phẩm 26 (無生品26), tr.271a6-12. 
 
 
* Trang 464 *

hành, thức vào pháp số không hai, cho đến Trí nhất thiết chủng vào pháp số không hai?
Tu-bồ-đề Đáp: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc, sắc tức  là vô sanh, vô sanh tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác vô  sanh, vô sanh chẳng khác thức; thức tức là vô sanh, vô sanh tức là thức.  Do nhân duyên ấy nên, Xá-lợi-phất! Sắc vào pháp số không hai; thọ,  tưởng, hành, thức vào pháp số không hai, cho đến Trí nhất thiết chủng,  cũng như vậy.
LUẬN:  Hỏi: Cuối phẩm trên, nên hỏi nghĩa chẳng sanh,[1] cớ sao trong đây mới hỏi?
Đáp: Ba đại pháp dễ hiểu, vì lợi ích nhiều chúng sanh, nên trước hỏi[2]:  Vì nhân duyên gì sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đến Trí nhất  thiết chủng chẳng sanh là chẳng phải Trí nhất thiết chủng? Tu-bồ-đề Đáp:  Sắc là không, trong sắc không có tướng sắc. Hành giả dùng trí tuệ vô  sanh ấy làm cho sắc vô sanh. Nếu hiểu được vô sanh ấy, tâm liền nghĩ  rằng nay chính là được thật tướng của sắc, thế nên nói sắc vô sanh là  chẳng phải sắc, sắc tánh thường tự vô sanh, chẳng phải nay dùng sức trí  tuệ khiến nó vô sanh. Như có người phá sắc làm cho không, vẫn còn có ý  tưởng về tướng bản sắc. Thí như phá nhà xí để làm nhà ở, nay tuy không  còn nhà xí, mà vẫn có cảm tưởng bất tịnh; nếu biết được nhà xí vốn  không, huyễn hóa làm ra, thời không có cảm tưởng nhà xí. Hành giả cũng  như vậy, nếu biết được sắc từ xưa lại đây ban đầu tự đã vô 
 
[1]  Đại trí độ luận, quyển 52, Phẩm vô sanh tam quán thứ 26.  
[2] Ba  đại pháp: Ðại trí độ luận, quyên 52, Phẩm vô sanh tam quán thứ 26, tr.  435c25-27: Bấy giờ Tuệ mạng Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề rằng: Bồ-tát  ma-ha-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật quán các pháp. (1) Thế nào là  Bồ-tát? (2) Thế nào là Bát-nhã ba-la-mật?  (3) Thế nào là quán? 
 
 
 
* Trang 465 *

sanh, thời không còn tưởng về sắc. Thế nên nói sắc vô sanh là chẳng phải sắc, cho đến Trí nhất thiết chủng cũng như vậy.
Hỏi: Ông trước tự nói vô sanh tức là không hai,[1] sao nay còn hỏi nữa?
Đáp: Nghĩa tuy một mà cửa đi vào quán có khác. Trên kia nói là  phá trong nhân trước có quả, nếu không có quả là pháp sanh ấy có một có  khác v.v... Sanh ấy hoặc ban đầu sanh, hoặc sau sanh; phá sanh như vậy  v.v... gọi là vô sanh.[2]  Nay đây phá hai pháp mắt và sắc, có và không v.v... ấy gọi là không  hai. Hành giả hoặc trước vào cửa quán vô sanh, sau vào cửa quán không  hai; hoặc trước vào cửa quán không hai, sau vào cửa quán vô sanh. Nghĩa  tuy một mà hành giả quán khác nhau. Phá sắc hai, cho nên nói là không  hai; phá sắc sanh cho nên nói là vô sanh. Trên kia nói nhân duyên của vô  sanh, đó là tự tướng không; đây nói nhân duyên của không hai, đó là  chẳng hợp, chẳng tán, nhất tướng đó là vô tướng. Nghĩa tuy đồng một  không, mà trên kia là tự tướng không, còn ở đây là tán không.
Sắc vào pháp số không hai là hành giả quán  sắc tướng chẳng sanh chẳng diệt, khi ấy phân biệt sắc, nay biến làm vô  sanh, thế nên nói sắc vô sanh tức là không hai, vì cớ sao? Vì sắc phá  tán tức là vô sanh. Như ở trước khi phân biệt các pháp, lìa sắc không  còn có sanh được, còn ở đây sắc phá tán tức là vô sanh, không được còn  có vô sanh nào khác. Vì vậy nên sắc tức là vào pháp số không hai. Ấy là  hai vị A-la- 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 52 và 53. 
[2] Đại trí độ luận, quyển 52 , phẩm mười vô thứ 25. 
 
 
* Trang 466 *

hán Xá-lợi-phất và Tu-bồ-đề ở trước Phật luận nghị với nhau xong.
Tu-bồ-đề bạch Phật mà còn nói lại nghĩa ấy, là muốn được Phật chứng tri vậy.
KINH: Bấy giờ Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nếu  Bồ-tát ma-ha-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật, quán các pháp như vậy, khi  ấy thấy sắc vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy thọ, tưởng, hành, thức vô  sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy ngã vô sanh cho đến kẻ biết kẻ thấy vô  sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy Thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật  vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy nội không vô sanh cho đến vô pháp hữu  pháp không vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy bốn niệm xứ vô sanh cho đến  mười tám pháp không chung vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy hết thảy  Tam-muội, hết thảy Đà-la-ni vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; cho đến thấy  Trí nhất thiết chủng vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy phàm phu, pháp  phàm phu vô sanh, rốt ráo thanh tịnh; thấy Tu-đà-hoàn, pháp Tu-đà-hoàn,  Tư-đà-hàm, pháp Tư-đà-hàm, A-na-hàm, pháp A-na-hàm, A-la-hán, pháp  A-la-hán, Bích-chi Phật, pháp Bích-chi Phật, Bồ-tát, pháp Bồ-tát, Phật,  pháp Phật vô sanh, rốt ráo thanh tịnh.
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Như tôi nghe
 
* Trang 467 *

nghĩa  của Tu-bồ-đề nói sắc là chẳng sanh; thọ, tưởng, hành, thức là chẳng sanh  cho đến Phật, pháp Phật là chẳng sanh. Nếu như vậy thời nay không thể  được Tu-đà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, quả  A-na-hàm, A-la-hán, quả A-la-hán, Bích-chi Phật, đạo Bích-chi Phật,  không thể được Trí nhất thiết chủng của Bồ-tát ma-ha-tát, cũng không có  sáu đường sai khác, cũng không được năm thứ Bồ-đề của Bồ-tát ma-ha-tát.  Này Tu-bồ-đề! Nếu hết thảy pháp tướng chẳng sanh, thì vì cớ sao  Tu-đà-hoàn vì muốn dứt ba kiết là thân kiến, giới thủ, nghi, nên tu đạo?  Tư-đà-hàm vì muốn làm mỏng dâm, nộ, si nên tu đạo? A-na-hàm vì muốn dứt  năm hạ phần kiết là tham, sân, thân kiến, giới thủ, nghi, nên tu đạo?  A-la-hán vì muốn dứt năm thượng phần kiết là sắc ái, vô sắc ái, trạo cử,  kiêu mạn, vô minh nên tu đạo? Bích-chi Phật vì muốn pháp Bích-chi Phật  nên tu đạo? Vì cớ sao Bồ-tát ma-ha-tát làm việc khó làm, chịu các thứ  khổ vì chúng sanh? Vì cớ sao Phật chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh  giác? Vì cớ sao Phật Chuyển pháp luân?
Tu-bồ-đề nói lại Xá-lợi-phất: Tôi không muốn khiến pháp vô sanh có sở  đắc, tôi cũng không muốn khiến trong pháp vô sanh được có Tu-đà-hoàn,  quả Tu-đà-hoàn ; cho đến không muốn khiến trong pháp
 
* Trang 468 *

vô sanh  được có A-la-hán, quả A-la-hán; Bích-chi Phật, đạo Bích-chi Phật; tôi  cũng không muốn khiến trong pháp vô sanh Bồ-tát làm việc khó làm, chịu  các thứ khổ, vì chúng sanh, Bồ-tát cũng không lấy tâm làm việc khó làm  để hành đạo, vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì sanh tâm khó, tâm khổ là không  thể làm lợi ích vô lượng vô số chúng sanh.
Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát thương xót chúng sanh, đối với chúng sanh tưởng  như cha mẹ, anh em; tưởng như con dại và như thân mình. Như vậy mới có  thể làm lợi ích vô lượng vô số chúng sanh, vì lấy vô sở đắc làm phương  tiện, vì cớ sao? Vì Bồ-tát ma-ha-tát nên sanh tâm như vậy: như ngã tìm  khắp hết thảy xứ, hết thảy chủng đều không thể có được; nội ngoại pháp  cũng như vậy. Nếu sanh tưởng như vậy, thời không có tâm khó, tâm khổ, vì  sao? Vì Bồ-tát đối nơi hết thảy xứ, hết thảy chủng, hết thảy pháp đều  không thọ.
Xá-lợi-phất! Tôi cũng không muốn khiến trong pháp vô sanh có Phật chứng  được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; cũng không muốn khiến trong pháp  vô sanh có Chuyển pháp luân, cũng không muốn khiến trong pháp vô sanh có  đắc đạo.
LUẬN: Luận giả nói: Quán vô sanh có hai bậc: 1. Quán nhu thuận nhẫn. 2. Quán vô sanh nhẫn. Trước kia nói 
 
* Trang 469 *

vô sanh là quán nhu thuận nhẫn, chưa rốt ráo thanh tịnh,[1] dần dần tập quán nhu thuận mà được vô sanh nhẫn, thời rốt ráo thanh tịnh.[2]
Hỏi: Bồ-tát chưa dứt hết kiết sử, chưa được Phật đạo, trí tuệ chưa thuần tịnh, làm sao nói rốt ráo thanh tịnh?
Đáp: Bồ-tát khi được vô sanh nhẫn, diệt các phiền não, được  Bồ-tát đạo, vào Bồ-tát vị, tuy còn tập khí phiền não, đến khi ngồi đạo  tràng mới hết, không bị chướng ngại nên rốt ráo thanh tịnh.
* Lại nữa, rốt ráo thanh tịnh là đối với nhu thuận đạo rốt ráo thanh  tịnh, chứ không phải đối với Phật đạo. Vì chúng sanh không, pháp không,  nên từ thấy được sắc vô sanh rốt ráo thanh tịnh, cho đến thấy được Phật  và Phật đạo vô sanh rốt ráo thanh tịnh.
Tu-bồ-đề dùng các nhân duyên nói các pháp tướng, quyết định vô sanh.  Nhân việc ấy mà Xá-lợi-phất nạn hỏi: Trong giới Hiền Thánh, rất nhỏ là  Tu-đà-hoàn và pháp Tu-đà-hoàn, rất lớn là Phật và Phật pháp. Nếu vô sanh  như vậy thời Thánh nhân không có lớn nhỏ, Thánh pháp không có ưu liệt;  cũng không có sáu đường sai khác? Đây là lược vấn nạn, tiếp sau hỏi về  dứt ba kiết tu đạo là rộng vấn nạn.
Hỏi: Thế nào là năm thứ Bồ-đề?
Đáp: Một là nhu thuận nhẫn, hai là vô sanh nhẫn, và ba thứ  Bồ-đề: Thanh-văn, Độc-giác, Phật. Đối với ba Bồ-đề này, vượt qua hai thứ  đầu mà trụ ở Bồ-đề thứ ba. 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 41, tr. 362a14-16:  Pháp  ở giữa nhu thuận nhẫn và vô sinh nhẫn, gọi là đảnh. Trú ở đảnh ấy, trên  thẳng đến Phật đạo, không còn sợ đọa; ví như trong pháp Thanh-văn, ở  giữa noãn pháp và nhẫn pháp gọi là đảnh pháp. Hỏi: Nếu được đảnh không  sợ đọa, sao nay nói đảnh đọa? Đáp: Sắp gần được mà mất gọi là đọa. Được  đảnh rồi trí tuệ an ổn, thời không sợ đọa; ví như lên núi, đã được đến  đỉnh, thời không sợ rớt; giữa lúc chưa đến, khoảnh khắc cheo leo sợ rớt.  Đảnh cứ tăng trưởng kiên cố, gọi là Bồ-tát vị. Vào vị ấy, hết thảy kiết  sử, hết thảy ma dân không làm lay động được, cũng gọi là vô sinh pháp  nhẫn, vì cớ sao? Vì khác với sinh. Các kiết sử ái v.v... và các thiện  pháp hỗn tạp, gọi là sinh.
[2] Đại trí độ luận, quyển 53, Phẩm vô sanh thứ 26, tr. 437b3-c14. 
 
 
* Trang 470 *

Lại có năm  Bồ-đề: 1. Gọi là phát tâm Bồ-đề, là ở trong vô lượng sanh tử mà phát tâm  cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên gọi là Bồ-đề. Đây là trong  nhân nói quả. 2. Gọi là phục tâm Bồ-đề, là bẻ gãy các phiền não, hàng  phục tâm mình, và tu hành các Ba-la-mật. 3. Gọi là minh tâm Bồ-đề, là  quán các pháp ba đời, gốc ngọn, tướng chung, tướng riêng, phân biệt trù  lượng, rõ được thật tướng các pháp rốt ráo thanh tịnh; nghĩa là tướng  Bát-nhã ba-la-mật. 4. Gọi là xuất đáo Bồ-đề, là nơi Bát-nhã ba-la-mật,  vì được lực phương tiện (tức lấy vô sở đắc làm lực phương tiện) nên cũng  không chấp trước Bát-nhã ba-la-mật, diệt hết thảy phiền não, thấy hết  thảy chư Phật mười phương, được vô sanh pháp nhẫn, ra khỏi ba cõi, đến  Trí nhất thiết chủng. 5. Gọi là Vô thượng Bồ-đề, là ngồi đạo tràng, dứt  tập khí phiền não, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy  là nghĩa của năm thứ Bồ-đề, còn nghĩa các hiền thánh dứt kiết sử, như  trước đã nói.[1]
Hỏi: Trong pháp Thanh-văn nói rộng nghĩa dứt kiết, cớ sao không nói hạnh Bích-chi Phật, Bồ-tát có các hạnh?
Đáp: Pháp Bích-chi Phật không khác với Thanh-văn, chỉ có phước  đức lợi căn, hơi thâm nhập thật tướng các pháp là khác. Còn Bồ-tát đạo  tuy có các hạnh, nhưng chỉ khổ hạnh khó làm là việc hy hữu, chúng sanh  trông thấy hoan hỷ, nói rằng Bồ-tát vì chúng ta mà làm hạnh như vậy, còn  các hạnh khác tuy thâm diệu, song người phàm không thể biết, hạnh ấy  không gây cảm được, nên không nói. 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 40 và 48. 
 
 
* Trang 471 *

* Lại nữa, như ý  nạn vấn của Xá-lợi-phất là nếu các pháp hoàn toàn vô sanh, không tịch,  thì hết thảy chúng sanh đều đắm vui, cớ sao Bồ-tát một mình chịu khổ  hạnh?
* Lại nữa, chư Phật thường vui xa lìa, tịch tịnh, dứt pháp ái, quyết  định biết các pháp không chuyển không hoàn, cớ sao lại chuyển Pháp luân  cho chúng sanh?
Tu-bồ-đề ở trước Phật nói pháp vô sanh, Phật không quở trách bác bẻ,  được năng lực khoái thích, vui nói không khó, nên đáp lại Xá-lợi-phất  rằng: Tôi cũng hoàn toàn không muốn khiến nơi pháp vô sanh có sáu hạng  Thánh nhân, trừ Bồ-tát nên nói sáu và sáu đạo khác nhau, vì cớ sao? Vì  chứng được pháp vô sanh nên gọi là Thánh pháp và Thánh nhân, có sai  khác, còn trong pháp vô sanh hoàn toàn không có gì.
* Lại nữa, trong pháp vô sanh có hai điều lỗi: Lỗi thô là vì tội sát  sanh, trộm cắp v.v... nên có ba đường ác; lỗi vi tế là vì đem tâm chấp  trước làm phước bố thí, trì giới nên có ba đường lành. Hoặc Bồ-tát sanh  tâm cho là khó là khổ, thời không thể độ hết thảy chúng sanh. Như việc  nhỏ của thế gian, tâm khó khăn cho là khổ, việc còn không thành huống gì  thành Phật đạo. Nhân duyên thành Phật đạo là tâm đại từ đại bi, xem  chúng sanh như cha mẹ, con cái, thân mình, vì cớ sao? Vì cha mẹ, con  cái, thân mình tự nhiên sanh lòng yêu mến, chứ không phải suy tính mà  sanh lòng yêu mến. Bồ-tát khéo tu tâm đại bi, nên đối với hết thảy chúng  sanh cho đến kẻ oán thù cũng đồng một tâm ái niệm. Quả báo của đại bi  có được vật dụng lợi ích đều không tiếc, đem hết vật sở hữu
 
* Trang 472 *

trong ngoài thí  cho chúng sanh. Ở đây nói lý do không tiếc là trên tất cả chỗ, tất cả  chủng, tất cả pháp đều không thể có được. Nếu hành giả mới vào Phật  pháp, trước dùng chúng sanh không, biết các pháp vô ngã, nay dùng pháp  không, biết các pháp cũng không. Do hai nhân duyên là tâm đại bi và các  pháp không, nên có thể không tiếc vật sở hữu trong ngoài, làm lợi ích  chúng sanh, mà không khởi ý tưởng khó làm, ý tưởng khổ hạnh, một lòng  tinh tấn hoan hỷ. Như người vì tự thân và vì cha mẹ, vợ con, siêng năng  tu nghiệp, không cho là khổ; nếu vì người khác mà làm thời không có tâm  hoan hỷ. Khổ hành, nạn hành, như trong phẩm sau Nhân duyên bổn sanh,  biến hóa hiện chịu làm thân súc sanh sẽ nói.[1]
Hết thảy các pháp rốt ráo không, tướng bất khả tư nghì nên hết thảy  pháp hoàn về mà không chuyển, nên không gọi là chuyển, chỉ vì phá điên  đảo hư vọng nên gọi là Chuyển pháp luân.
KINH: Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Nay tôi muốn khiến do sanh pháp đắc đạo hay do vô sanh pháp đắc đạo? 
Tu-bồ-đề nói với Xá-lợi-phất: Tôi không muốn khiến do sanh pháp đắc đạo.
Xá-lợi-phất nói: Vậy nay Tu-bồ-đề muốn khiến do vô sanh pháp đắc đạo ư?
Tu-bồ-đề Đáp: Tôi cũng không muốn khiến do vô sanh pháp đắc đạo. 
 
[1] Biến hóa hiện chịu làm thân súc sanh: T. 8: Đại Bát-nhã kinh (大品般若經), quyển 26, Tất định phẩm 83 (畢定品第83), tr. 409c3-410a10; T. 8: Phóng quang Bát-nhã kinh (放光般若經), quyển 19, Tất định phẩm 83 (畢定品第83), tr. 136c26-137b2. 
 
 
 
* Trang 473 *

Xá-lợi-phất nói: Như lời Tu-bồ-đề nói là không biết không được ư?
Tu-bồ-đề Đáp: Có biết có được chẳng do hai pháp,[1]  mà do danh tự thế gian nên có biết có được. Do danh tự thế gian nên có  Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, Bích-chi Phật, chư Phật; còn trong thật  nghĩa đệ nhất không có biết, không có được, không có Tu-đà-hoàn cho đến  không có chư Phật.
Tu-bồ-đề! Nếu do danh tự thế gian nên có biết có được, vậy sáu đường  sai khác cũng do danh tự thế gian nên có, chẳng phải do đệ nhất thật  nghĩa ư?
Tu-bồ-đề Đáp: Như vậy, như vậy! Xá-lợi-phất! Như danh tự thế gian nên  có biết có được, sáu đường sai khác cũng do danh tự thế gian nên có,  chẳng phải do đệ nhất thật nghĩa, vì cớ sao? Xá-lợi-phất! Vì trong đệ  nhất thật nghĩa không nghiệp không báo; không sanh không diệt (anutpannā aniruddhā), không sạch không nhơ (amalā na vimalā).
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Pháp bất sanh sanh hay pháp sanh sanh?
Tu-bồ-đề Đáp: Tôi không muốn khiến pháp bất sanh sanh cũng không muốn khiến pháp sanh sanh.
Xá-lợi-phất nói: Thế nào là pháp bất sanh, không muốn khiến nó sanh? 
[1] Hai pháp: Hoặc hữu vi, hoặc vô vi; sanh là hữu vi, vô sanh là vô vi. 
 
 
* Trang 474 *

Tu-bồ-đề  Đáp: Sắc là pháp bất sanh, tự tánh không, không muốn khiến nó sanh;  thọ, tưởng, hành, thức là pháp bất sanh, tự tánh không, không muốn khiến  nó sanh; cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là pháp bất sanh, tự  tánh không, không muốn khiến nó sanh.
Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Sanh sanh hay bất sanh sanh?
Tu-bồ-đề Đáp: Chẳng phải sanh sanh cũng chẳng phải bất sanh sanh, vì cớ  sao? Này Xá-lợi-phất! Sanh và bất sanh là hai pháp, không hợp không  tán, không sắc, không hình, không đối, một tướng đó là vô tướng. Này  Xá-lợi-phất! Do nhân duyên ấy chẳng phải sanh sanh, cũng chẳng phải bất  sanh sanh.
Bấy giờ Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Tu-bồ-đề ưa nói pháp vô sanh và tướng vô sanh.
Tu-bồ-đề nói với Xá-lợi-phất: Tôi ưa nói pháp vô sanh cũng ưa nói tướng  vô sanh, vì sao? Vì các pháp vô sanh và tướng vô sanh, ưa nói và ngôn  ngữ, hết thảy pháp ấy đều chẳng hợp chẳng tán, không sắc không hình,  không đối, một tướng đó là vô tướng. 
 
* Trang 475 *

Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Ông ưa nói pháp vô sanh cũng ưa nói tướng vô sanh, ngữ ngôn ưa nói ấy cũng bất sanh?
Tu-bồ-đề Đáp: Như vậy! Như vậy! Xá-lợi-phất, vì cớ sao? Này  Xá-lợi-phất! Vì sắc chẳng sanh; thọ, tưởng, hành, thức chẳng sanh; mắt  chẳng sanh cho đến ý chẳng sanh; địa chủng chẳng sanh cho đến thức chủng  chẳng sanh; thân hành chẳng sanh, khẩu hành chẳng sanh, ý hành chẳng  sanh; Thí ba-la-mật chẳng sanh cho đến Trí nhất thiết chủng chẳng sanh.
Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên ấy, tôi ưa nói pháp vô sanh cũng ưa nói tướng vô sanh và ngôn ngữ ưa nói ấy cũng bất sanh.
LUẬN: Luận giả nói: Bấy giờ, Xá-lợi-phất biết Tu-bồ-đề ưa nói không khó  nhưng hỏi rằng: Nếu tướng hết thảy pháp bất sanh, vậy tướng ấy làm sao  chứng được? Dùng pháp sanh chứng được hay dùng pháp bất sanh chứng được?  Nếu dùng pháp sanh chứng được, thời pháp sanh là hư dối, ông đã dùng  các lý do để phá. Lại không thể lấy pháp sanh thoát được pháp sanh? Nếu  dùng vô sanh mà chứng được, thời vô sanh chưa có tướng pháp, không thể  dùng để chứng, làm sao chứng được? Tu-bồ-đề không thọ nhận cả hai pháp  vì đều có lỗi, như trước nói.[1]
Xá-lợi-phất suy nghĩ rằng: Trong Kinh Phật dạy hai 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 53. 
 
 
* Trang 476 *

pháp thu nhiếp  hết thảy pháp, hoặc hữu vi hoặc vô vi; sanh là hữu vi, vô sanh là vô vi.  Nay Tu-bồ-đề xa lìa hai pháp ấy, làm sao nói đến việc đắc đạo? Suy nghĩ  như vậy rồi hỏi Tu-bồ-đề: Không có việc đắc đạo ư? Tu-bồ-đề là đại  A-la-hán, thực hành tam-muội Vô tránh bậc nhất, chỉ vì Bồ-tát nên thuyết  pháp vô sanh ấy, sao ông khởi tà kiến nói không người đắc đạo? Thế nên  nói có biết có được, biết và được tức là tên khác của chữ được đạo quả.  Tu-bồ-đề sợ trái với lời nói ở trước nên nói không do hai pháp,[1]  mà chỉ vì thế tục nên nói có Tu-đà-hoàn cho đến Phật, vì sao? Vì hết  thảy các pháp thật không có tướng ngã, nay dùng ngã mà phân biệt từ  Tu-đà-hoàn cho đến Phật, ấy là theo pháp thế tục.
* Lại nữa, vì chưa được pháp không, nên nói ấy là thiện, ấy là bất  thiện, ấy là hữu vi, ấy là vô vi v.v... Còn trong đệ nhất nghĩa không có  chúng sanh nên không có Tu-đà-hoàn cho đến Phật; vì pháp không, nên  không có quả Tu-đà-hoàn cho đến Phật đạo. Thánh nhân, Thánh pháp còn hư  dối không có định thật, huống gì nghiệp và quả báo người phàm sáu nẽo.
Hỏi: Tu-bồ-đề đã dùng mỗi mỗi nhân duyên quyết định nói về  pháp bất sanh, sao nay Xá-lợi-phất còn hỏi pháp bất sanh sanh hay pháp  sanh sanh?
Đáp: Tu-bồ-đề trên kia nói nhân duyên đắc đạo, nên Xá-lợi-phất  nhận được ý Tu-bồ-đề tuy nói pháp vô sanh phá hết thảy pháp, là vì nhân  duyên nên nói mà tâm không chấp trước pháp vô sanh, thế nên lại hỏi.[2] 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 53. 
Tu-bồ-đề đã  dùng mỗi mỗi nhân duyên quyết định nói về pháp bất sanh: Ðại trí độ  luận, quyển 52, Phẩm mười vô thứ 25 (十無品第25); quyyển 53, Phẩm vô sanh  thứ 26 (無生品第26), tr. 437b3-c14: Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Pháp bất  sanh sanh hay pháp sanh sanh? Tu-bồ-đề Đáp: Tôi không muốn khiến pháp  bất sanh sanh cũng không muốn khiến pháp sanh sanh. Xá-lợi-phất nói: Thế  nào là pháp bất sanh, không muốn khiến nó sanh? Tu-bồ-đề Đáp: Sắc là  pháp bất sanh, tự tánh không, không muốn khiến nó sanh; thọ, tưởng,  hành, thức là pháp bất sanh, tự tánh không, không muốn khiến nó sanh;  cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là pháp bất sanh, tự tánh không,  không muốn khiến nó sanh. Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề: Sanh sanh hay  bất sanh sanh? Tu-bồ-đề Đáp: Chẳng phải sanh sanh cũng chẳng phải bất  sanh sanh, vì cớ sao? Này Xá-lợi-phất! Sanh và bất sanh là hai pháp,  không hợp không tán, không sắc, không hình, không đối, một tướng đó là  vô tướng. Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên ấy chẳng phải sanh sanh, cũng  chẳng phải bất sanh sanh.
 
 
 
 
* Trang 477 *

Lại vì pháp ấy thậm thâm, muốn khiến người nghe hiểu được rõ ràng, nên lại hỏi.
Ở trên hỏi pháp tu hành đắc đạo,[1]  nay hỏi hết thảy pháp làm sao sanh. Dùng tuệ nhãn biết hết thảy pháp  đều chẳng sanh, nhưng hiện thấy các pháp sanh, nên lại hỏi làm sao sanh.
Tu-bồ-đề Đáp: Cả hai việc đều chẳng phải. Nếu sanh sanh, pháp sanh đã  sanh, không cần phải sanh nữa, nếu chẳng sanh sanh, pháp sanh chưa có  nên không cần sanh. Nếu bảo khi sanh, một nửa sanh, một nửa không sanh,  ấy cũng chẳng sanh. Nếu là nửa phần sanh thời đã sanh rồi, nếu là nửa  phần chưa sanh thời không sanh. Ấy là Tu-bồ-đề không dùng mắt thịt thấy,  vì không thông đạt nên cả hai pháp đều không chấp thủ, chỉ nói sanh ấy  như huyễn như mộng, từ hư dối pháp sanh, nên lìa, nên không thủ tướng.
Xá-lợi-phất hỏi: Những pháp gì cả hai đều không chấp thủ? Tu-bồ-đề dùng  theo thế đế nên nói sắc cho đến Trí nhất thiết chủng rốt ráo chẳng  sanh, tướng “Không” tự nhiên, không muốn khiến trong thật tướng có sanh,  nếu về thế đế hư dối có thể có sanh, sanh như huyễn hóa.
Trong đây nói nhân duyên của chẳng sanh là chẳng hợp, chẳng tán.
Có người nói: Sanh với pháp khác nhau, sanh là thường, còn pháp được  sanh là vô thường, thế nên lại hỏi. Người đáp lại cho sanh và pháp chẳng  khác, nếu nói pháp sanh là đã nói tướng sanh, sanh chẳng sanh, như trên  nói.[2] 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển  53. 
[2] Phá sanh: Đại trí độ luận, quyển 1, 15, 22, 31, 35 và 52.  
 
 
* Trang 478 *

Xá-lợi-phất nghe  Tu-bồ-đề nói, biết tâm Tu-bồ-đề ưa vui pháp vô sanh, nên nói với  Tu-bồ-đề rằng: Ông thật ưa vui nói pháp vô sanh. Tu-bồ-đề liền nhận câu  hỏi ấy, tâm cũng không thẹn, vì sao? Vì luận nghị ấy không thể phá,  không có tội lỗi. Sao biết? Tu-bồ-đề tự nói không có pháp có thể hợp,  không có pháp có thể tán, không sắc, không hình, không đối, một tướng đó  là vô tướng, tướng không còn không chấp thủ, huống gì các tướng.
Xá-lợi-phất lại khen ngợi: Ông ưa nói pháp vô sanh và ngôn ngữ đều vô  sanh, ấy thật thanh tịnh. Nếu chính đương vui nói và ngữ ngôn chẳng phải  vô sanh, chỉ nói ngoại vật vô sanh, thời chẳng phải thanh tịnh.
Tu-bồ-đề liền lại thọ nhận lời khen ngợi ấy, đáp lại Xá-lợi-phất rằng:  Chẳng phải chỉ vui nói và ngữ ngôn là vô sanh, mà sắc cho đến Trí nhất  thiết chủng, cũng đều là vô sanh.
KINH: Bấy giờ, Xá-lợi-phất nói với Tu-bồ-đề rằng: Tu-bồ-đề xứng  đáng ở trên hết những người thuyết pháp, vì sao? Vì Tu-bồ-đề tùy chỗ  hỏi đều đáp được cả.
Tu-bồ-đề Đáp: Vì các pháp không có chỗ nương.
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Làm sao các pháp không có chỗ nương?
Tu-bồ-đề Đáp: Sắc tánh thường không, không nương trong, không nương ngoài, không nương
 
* Trang 479 *

giữa;  thọ, tưởng, hành, thức thường không, không nương trong, không nương  ngoài, không nương giữa. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tánh thường không,  không nương trong, không nương ngoài, không nương giữa; sắc tánh thường  không, cho đến pháp tánh thường không, không nương trong, không nương  ngoài, không nương giữa. Thí ba-la-mật tánh thường không, cho đến  Bát-nhã ba-la-mật tánh thường không, không nương trong, không nương  ngoài, không nương giữa. Nội không tánh thường không, cho đến vô pháp  hữu pháp không tánh thường không, không nương trong, không nương ngoài,  không nương giữa.
Xá-lợi-phất! Bốn niệm xứ tánh thường không, cho đến Trí nhất thiết  chủng tánh thường không, không nương trong, không nương ngoài, không  nương giữa.
Do nhân duyên ấy, Xá-lợi-phất! Hết thảy các pháp không chỗ nương, vì  tánh thường không. Như vậy, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát khi tu hành  Bát-nhã ba-la-mật, nên thanh tịnh sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến  nên thanh tịnh Trí nhất thiết chủng.
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Bồ-tát ma-ha-tát làm sao khi tu sáu Ba-la-mật thanh tịnh Bồ-tát đạo?
Tu-bồ-đề Đáp: Có Thí ba-la-mật thế gian, có Thí ba-la-mật xuất thế gian; Giới ba-la-mật, Nhẫn
 
* Trang 480 *

ba-la-mật, Tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật có thế gian, có xuất thế gian. 
Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Thế nào là Thí ba-la-mật thế gian, thế nào là Thí ba-la-mật xuất thế gian?
Tu-bồ-đề Đáp: Nếu Bồ-tát ma-ha-tát làm thí chủ hay cúng thí cho  Sa-môn, Bà-la-môn, người nghèo cùng, kẻ ăn xin, cần ăn cho ăn, cần uống  cho uống, cần áo cho áo, đồ nằm, giường nệm, phòng nhà, hương hoa, anh  lạc, thuốc thang, các thứ cần dùng để nuôi sống; hoặc vợ con, quốc thổ,  đầu mắt, tay chân, chi tiết, vật trong ngoài đều lấy cấp thí, khi thí  nghĩ rằng: Ta cho kia nhận, ta không xan tham, ta là thí chủ, ta có thể  bỏ hết thảy vật, ta theo lời Phật dạy bố thí, ta tu Thí ba-la-mật. Làm  việc bố thí như vậy rồi, dùng pháp có đưọc cho hết thảy chúng sanh chung  hưởng, hồi hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghĩ rằng: Nhân  sự bố thí này mà khiến cho chúng sanh được cái vui đời này, sau sẽ khiến  được vào Niết-bàn.
Người ấy bố thí như vậy có ba điều chướng ngại : Là có tướng  ta, tướng người khác, tướng bố thí. Chấp trước ba tướng ấy mà bố thí, ấy  gọi là Thí ba-la-mật thế gian. Vì nhân duyên gì nên gọi là thế gian? Vì  không động, không xuất đối với thế gian nên gọi là Thí ba-la-mật thế  gian.
 
* Trang 481 *

Thế nào  gọi là Thí ba-la-mật xuất thế gian? Đó là ba phần được thanh tịnh. Thế  nào là ba? Là Bồ-tát ma-ha-tát khi bố thí, ta không thể có được, không  thấy người thọ nhận và vật bố thí không thể có được, cũng không trông  quả báo. Ấy gọi là Bồ-tát Thí ba-la-mật ba phần thanh tịnh.
* Lại nữa, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát khi bố thí cho tất cả chúng  sanh, tướng chúng sanh cũng không thể có được, lấy sự bố thí ấy hồi  hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho đến không thấy tướng pháp  vi tế. Xá-lợi-phất! Ấy gọi là Thí ba-la-mật xuất thế gian. Vì sao gọi là  xuất thế gian? Là hay động hay xuất đối với thế gian nên gọi là Thí  ba-la-mật xuất thế gian.
Giới ba-la-mật có chỗ nương là Giới ba-la-mật thế gian, không chỗ nương  là Giới ba-la-mật xuất thế gian. Các nghĩa khác cũng nói như Thí  ba-la-mật.
Nhẫn ba-la-mật, Tấn ba-la-mật, Thiền ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật có  chỗ nương gọi là thế gian, không có chỗ nương gọi là xuất thế gian. Các  nghĩa khác cũng nói như Thí ba-la-mật.
Như vậy, Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát khi tu hành sáu Ba-la-mật, tịnh Bồ-tát đạo.
 
* Trang 482 *

Xá-lợi-phất hỏi Tu-bồ-đề: Làm sao Bồ-tát ma-ha-tát vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Tu-bồ-đề Đáp: Tu bốn niệm xứ là Bồ-tát ma-ha-tát vì đạo Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến tu tám Thánh đạo phần, cửa không  giải thoát, cửa vô tướng giải thoát, cửa vô tác giải thoát; nội không  cho đến vô pháp hữu pháp không, hết thảy môn Tam-muội, hết thảy môn  Đà-la-ni, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn trí vô ngại, mười tám  pháp không chung, đại từ đại bi.
Xá-lợi-phất! Ấy gọi là Bồ-tát ma-ha-tát vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
LUẬN:  Hỏi: Năm trăm A-la-hán Phật đều thọ ký cho là đệ nhất, như Xá-lợi-phất (Śāriputra) trí tuệ đệ nhất, Mục-kiền-liên (Mahāmaudgalyāyana) thần túc đệ nhất, Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa) tu hạnh đầu đà đệ nhất, Tu-bồ-đề (Subhūti) được Vô-tránh Tam-muội đệ nhất, Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahākātyāyana) phân biệt Tu-đa-la đệ nhất, Phú-lâu-na (Purna Maitrāyaniputra) đệ nhất trong hàng thuyết pháp, nay cớ sao Xá-lợi-phất lại khen ngợi Tu-bồ-đề xứng đáng đệ nhất trong hàng thuyết pháp?
Đáp: Phật dùng Phật nhãn quán hết thảy chúng sanh lợi căn, độn  căn, trù lượng hết thảy pháp tổng tướng, biệt tướng, tùy chỗ đắc pháp  của họ mà mỗi mỗi đều thọ ký đệ nhất, không lầm. Phú-lâu-na ở giữa bốn  chúng dùng mười hai bộ Kinh, theo mỗi mỗi pháp môn, mỗi mỗi nhân duyên,  thí dụ mà nói, có thể làm lợi ích chúng sanh đệ nhất. Tu-bồ-đề
 
* Trang 483 *

thường tu Vô  tránh Tam-muội, cùng với Bồ-tát đồng việc, khôn khéo vui nói một pháp  môn không tướng, hơn Phú-lâu-na; thí như người thợ có nhiều sở năng, sở  năng nhiều nên tinh xảo cùng khắp, còn như có người có khả năng chuyên  một việc, thời ắt cùng tột cái đẹp của nó. Phú-lâu-na tuy đa năng song  không bằng Tu-bồ-đề thường ưa hành không tướng, nên hay khéo nói không.  Thế nên Xá-lợi-phất nghe Tu-bồ-đề khéo nói nghĩa không, liền khen ngợi  rằng: Ông đáng là đệ nhất trong hạng người thuyết pháp. Xá-lợi-phất thấy  Tu-bồ-đề tùy chỗ hỏi đều đáp được, như gió đi giữa không, không gì ngăn  ngại.
Khi ấy Tu-bồ-đề không nhún nhường, không thọ nhận, vì an lập bằng  phẳng, chắc chắn là tướng người tốt. Tướng người tốt là tự khen, không  tự chê, cũng không khen không chê người khác. Nếu tự khen mình, thì  chẳng phải là tướng đại nhân, không được người khen mới tự khen; nếu tự  chê, ấy là người nịnh hót; nếu chê người khác, ấy là người dèm pha, phá  hại; nếu khen người khác, ấy là người dua nịnh. Tu-bồ-đề nói pháp vô  sanh nên Xá-lợi-phất tuy khen mà không phải nịnh hót. Tu-bồ-đề cho  Xá-lợi-phất khen thật nên không nhún nhường. Lại vì dứt pháp ái nên tâm  không cao, cũng không ái trước, chỉ đáp về nhân duyên của sự không ngại  không chướng, tức là hết thảy pháp không có chỗ nương tựa, không có chỗ  nương tựa nên không ngại không chướng. Nghĩa không có chỗ nương tựa như  trước đã nói.[1] 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 26 và 41. 
 
 
* Trang 484 *

Trong đây  Tu-bồ-đề tự nói vì nội pháp không nên sắc không nương tựa trong; vì  ngoại pháp không nên sắc không nương tựa ngoài; vì trung gian không có  nên sắc không nương tựa trung gian. Như sắc, cho đến Trí nhất thiết  chủng cũng như vậy. Bồ-tát biết tất cả ba cõi vô thường, không nên không  nương tựa trong đó; khi ấy phiền não dứt, tịnh được Bồ-tát đạo. Thế nên  Tu-bồ-đề nói, Bồ-tát tu hành sáu Ba-la-mật, nên tịnh sắc cho đến tịnh  Trí nhất thiết chủng.
Hỏi: Tịnh sắc cho đến tịnh Trí nhất thiết chủng tức là tịnh Bồ-tát đạo, cớ gì còn hỏi?
Đáp: Bồ-tát hay làm cho sắc rốt ráo không, ấy gọi là thanh  tịnh. Việc ấy thâm diệu, không thể tức khắc liền được, thế nên  Xá-lợi-phất hỏi: Hàng Bồ-tát tân học làm sao tu đạo phương tiện ban đầu  đó?
Tu-bồ-đề Đáp: Nếu Bồ-tát tu được hai thứ Ba-la-mật, thời sáu Ba-la-mật  là bắt đầu mở Bồ-tát đạo, dùng vô sở đắc không mà tu ba mươi bảy phẩm là  mở Phật đạo. Tịnh gọi là mở, như trừ khử chông gai trên đường đi, gọi  là mở đường.
Những gì là hai thứ Ba-la-mật? 1. Thế gian, 2. Xuất thế gian. Thế gian  là Tu-bồ-đề tự nói nghĩa rằng: Cần ăn cho ăn v.v... như đã nói ở đầu  phẩm.[1]  Nếu lúc bố thí mà có chỗ nương tựa, thời như người già bệnh nương tựa  sức người khác mới có thể đi đứng được. Người bố thí xa lìa trí tuệ  thật, tâm lực mỏng ít cho nên nương tựa.
Nương tựa là thân ta, tài vật, người nhận, tâm chấp trước thủ tướng pháp ấy, sanh các phiền não kiêu mạn v.v... 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 30, tr. 277b10-279b1. 
 
 
* Trang 485 *

ấy gọi là thế gian, không động không xuất.
Động là nhu thuận nhẫn.
Xuất là vô sanh nhẫn.
Trong pháp Thanh-văn, động là bậc hữu học, xuất là bậc vô học. Các  nghĩa của năm Ba-la-mật kia cũng như vậy. Ấy gọi là bắt đầu mở Bồ-tát  đạo.
Hỏi: Bồ-tát đạo tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cớ sao còn hỏi?
Đáp: Lúc làm Bồ-tát phải có đạo. Phật đã đến chỗ không cần  đạo, đạo ấy vì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên gọi là Bồ-đề  đạo. Bồ-tát tu hành đạo ấy nên gọi là Bồ-tát đạo. Trong đây Phật dạy đạo  xa là Bồ-tát đạo, sáu Ba-la-mật; đạo gần là Bồ-đề đạo, ba mươi bảy  phẩm. Trong sáu Ba-la-mật, bố thí, trì giới là tạp nên xa; ba mươi bảy  phẩm chỉ có thiền định, trí tuệ nên gần. Sáu Ba-la-mật có thế gian, xuất  thế gian xen lẫn nên xa; ba mươi bảy phẩm, ba giải thoát môn v.v... cho  đến đại từ đại bi, rốt ráo thanh tịnh nên gần.
* Lại nữa, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đạo là từ địa vị mới phát  tâm cho đến địa vị Kim-cang Tam-muội, trung gian đó vì tu hạnh Bồ-đề,  Bồ-tát đều gọi là Bồ-đề đạo.[1]
KINH: Bấy giờ, Xá-lợi-phất tán thán Tu-bồ-đề rằng: Lành thay, Lành thay! Thế nào là lực Ba-la-mật?
Tu-bồ-đề Đáp: Là lực Bát-nhã ba-la-mật, vì cớ 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 53, tr. 598b; quyển 76, tr. 440b-c. 
 
 
* Trang 486 *

sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật hay xuất sanh hết thảy pháp lành, hoặc pháp Thanh-văn, pháp Bích-chi Phật, pháp Bồ-tát, pháp Phật.
Xá-lợi-phất! Bát-nhã ba-la-mật hay nhiếp thọ hết thảy pháp lành; hoặc  pháp Thanh-văn, pháp Bích-chi Phật, pháp Bồ-tát, pháp Phật.
Xá-lợi-phất! Chư Phật quá khứ thực hành Bát-nhã ba-la-mật mà chứng được  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chư Phật vị lai cũng thực hành Bát-nhã  ba-la-mật mà sẽ chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xá-lợi-phất! Chư Phật trong mười phương thế giới hiện tại cũng thực  hành Bát-nhã ba-la-mật mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát ma-ha-tát khi nghe nói Bát-nhã ba-la-mật, không  nghi không vấn nạn, nên biết Bồ-tát ma-ha-tát ấy thực hành đạo Bồ-tát.
Bồ-tát đạo là cứu độ hết thảy chúng sanh nên tâm không xa bỏ hết thảy  chúng sanh, vì không có sở đắc. Bồ-tát thường nên không xa lìa niệm ấy,  tức là niệm đại bi.
Xá-lợi-phất lại Hỏi: Muốn khiến Bồ-tát ma-ha-tát thường không xa lìa  niệm ấy, tức là niệm đại bi. Nếu Bồ-tát ma-ha-tát không xa lìa niệm đại  bi, khiến hết thảy chúng sanh đều sẽ làm Bồ-tát, vì 
 
* Trang 487 *

sao? Tu-bồ-đề! Vì hết thảy chúng sanh cũng không xa lìa các niệm?
Tu-bồ-đề Đáp: Lành thay, lành thay! Xá-lợi- phất! Ông muốn vấn  nạn tôi mà trở thành nghĩa của tôi, vì sao? Vì chúng sanh không có nên  niệm cũng không có, chúng sanh tánh không có nên niệm cũng là tánh không  có; chúng sanh pháp không có nên niệm cũng là pháp không có; chúng sanh  lìa nên niệm cũng lìa; chúng sanh không nên niệm cũng không; chúng sanh  không thể biết nên niệm cũng không thể biết.
Xá-lợi-phất! Sắc không có nên niệm cũng không có; sắc tánh  không có nên niệm cũng là tánh không có; sắc pháp không có nên niệm cũng  là pháp không có; sắc lìa nên niệm cũng lìa; sắc không nên niệm cũng  không  sắc không thể biết nên niệm cũng không thể biết; thọ, tưởng,  hành, thức cũng như vậy. Mắt cho đến ý, sắc cho đến pháp, địa chủng cho  đến thức chủng, (Kinh Đại Bát Nhã ghi: Địa giới, thức giới - ND),  Thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật, nội không cho đến vô pháp hữu  pháp không, bốn niệm xứ cho đến mười tám pháp không chung, hết thảy môn  Tam-muội, hết thảy môn Đà-la-ni, Nhất thiết trí, Trí nhất thiết chủng,  cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không có nên niệm cũng không có,  cho đến Vô
 
* Trang 488 *

thượng Chánh đẳng Chánh giác không thể biết nên niệm cũng không thể biết.
Xá-lợi-phất! Bồ-tát ma-ha-tát tu hành đạo ấy, tôi muốn khiến không xa lìa niệm ấy, tức là niệm đại bi.
Bấy giờ, Phật tán thán Tu-bồ-đề rằng: Lành thay, lành thay!  Bồ-tát ma-ha-tát có nói Bát-nhã ba-la-mật cũng nên nói như vậy. Như ông  nói Bát-nhã ba-la-mật đều vâng thừa ý Phật. Bồ-tát ma-ha-tát học Bát-nhã  ba-la-mật nên như lời ông nói mà học.
Khi Tu-bồ-đề nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật ấy, ba ngàn đại thiên  thế giới chấn động sáu cách. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống;  phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống ; phương nam vọt lên, phương  bắc chìm xuống; phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống; ở giữa vọt  lên, hai bên chìm xuống; hai bên vọt lên, ở giữa chìm xuống.
Bấy giờ Phật mỉm cười.
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Vì nhân duyên gì nên Phật mỉm cười?
Phật bảo Tu-bồ-đề: Như Ta ở thế giới này nói Bát-nhã ba-la-mật,  vô lượng A-tăng-kỳ thế giới chư Phật ở phương đông cũng vì các Bồ-tát  ma-ha-tát mà nói Bát-nhã ba-la-mật, chư Phật ở phương nam,
 
* Trang 489 *

tây, bắc, bốn góc và trên dưới cũng nói Bát-nhã ba-la-mật ấy.
Khi nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật ấy, mười hai na-do-tha các trời,  người chứng được vô sanh pháp nhẫn. Khi chư Phật mười phương nói  Bát-nhã ba-la-mật ấy, vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh cũng phát tâm Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác.
LUẬN: Luận giả nói: Xá-lợi-phất nghĩ rằng: Tu-bồ-đề phân biệt nói rõ  sáu Ba-la-mật thế gian, xuất thế gian và Bồ-đề đạo rất lợi ích cho chúng  sanh nên hoan hỷ tán thán: Lành thay, lành thay! Nói lại hai lần là tỏ  sự hoan hỷ cùng tột.
Hỏi: Ấy là do lực của Ba-la-mật nào?
Đáp: Tu-bồ-đề suy nghĩ rằng: Trong tất cả tâm số pháp, trừ trí  tuệ, không có tâm số nào có khả năng phân biệt dứt nghi, mở lối như  vậy. Trong các Ba-la-mật, nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật tự mình không thể  thành tựu, huống gì có thể phân biệt mở lối? Suy nghĩ như vậy rồi, đáp  Xá-lợi-phất rằng: Đó là lực của Bát-nhã ba-la-mật, như trước đã nói.  Trong các pháp không có ngã, không có kẻ biết, không có kẻ thấy. Nay đem  điều ấy làm chứng biết đó là lực của Bát-nhã ba-la-mật, chẳng phải lực  của Phật, chẳng phải lực của Tu-bồ-đề,[1]  vì sao? Tu-bồ-đề nói lý do vì Bát-nhã ba-la-mật xa lìa hai bên đoạn  thường, có, không v.v... hay phát sanh tất cả pháp lành, đó là tướng  định, tướng cứng chắc không hoại của pháp ba thừa. 
 
[1] Trong các pháp không có ngã, không có kẻ biết, không có kẻ thấy, ngã không thể có được: Đại trí độ luận, quyển 12, tr. 148b-150a; quyển 42, tr. 364c21-365a15.  
 
 
* Trang 490 *

Lại, Bát-nhã ba-la-mật vô lượng vô biên nên có thể nhiếp thụ tất cả pháp lành, như biển lớn hay nạp thụ trăm sông nghìn dòng.
Pháp lành ba thừa là sáu Ba-la-mật, cho đến  mười tám pháp không chung. Mười phương ba đời chư Phật thực hành Bát-nhã  ba-la-mật nên đều chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tuy thực  hành các Ba-la-mật kia, mà Bát-nhã ba-la-mật rất tôn quí, có năng lực  phân biệt thông đạt. Thí như hòa hợp thuốc xổ, vị bã đậu mạnh hơn cả.  Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, tuy hòa hợp với các Ba-la-mật kia, nhưng  phá các phiền não, tà kiến, xả bỏ hý luận thì lực Bát-nhã ba-la-mật hơn  cả. Vì vậy, nên nói đều là lực của Bát-nhã ba-la-mật.
Hỏi: Mỗi mỗi tán thán Bát-nhã ba-la-mật là vi diệu thậm thâm, vậy ai hay tu hành, tùy thuận, tương ưng Bát-nhã ba-la-mật?
Đáp: Những Bồ-tát trong vô lượng đời chứa nhóm các phước đức,  lợi căn, các phiền não bị bẻ mỏng; tuy chưa đến địa vị bất thối, song  nghe nói Bát-nhã ba-la-mật liền tin thọ thâm nhập. Người có tướng thông  đạt như vậy, thời có thể thực hành đạo Bát-nhã ba-la-mật, nghĩa là cứu  độ hết thảy chúng sanh, khiến xa lìa ưu não thế gian, vì tâm đại bi nên  không bỏ hết thảy chúng sanh. Bồ-tát thường không nên xa lìa tâm đại bi  và niệm rốt ráo không, rốt ráo không, thời phá các phiền não thế gian,  thị hiện Niết-bàn; mà tâm đại bi dẫn dắt khiến trở lại vào trong thiện  pháp, để lợi ích chúng sanh.
 
* Trang 491 *

Bấy giờ  Xá-lợi-phất nạn hỏi Tu-bồ-đề: Nếu Bồ-tát không lìa niệm đại bi và niệm  rốt ráo không ấy, thời tất cả chúng sanh đều sẽ làm Bồ-tát, vì sao? Vì  rốt ráo không, thì vô tướng, không phân biệt, không nên Bồ-tát có niệm  đại bi, còn chúng sanh không có niệm đại bi. Nếu có thì hết thảy chúng  sanh nên chung có, nếu không thì Bồ-tát cũng nên không?
Tu-bồ-đề Đáp: Ông nuốn nạn hỏi tôi mà trở lại giúp thành nghĩa của tôi,  vì sao? Vì các pháp tướng rốt ráo không, nên chúng sanh cũng không,  chúng sanh không nên niệm rốt ráo không cũng không. Nếu các pháp rốt ráo  không, thì đâu có chúng sanh thật không mà nạn hỏi tôi rằng: Chúng sanh  không lìa niệm ấy, thời đều sẽ làm Bồ-tát! Thế nên nói chúng sanh không  có nên niệm rốt ráo không cũng không có. Chúng sanh không có tự tánh,  chúng sanh lìa, chúng sanh không, chúng sanh không thể biết, niệm rốt  ráo không cũng không. Sắc cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng  như vậy.
Hỏi: Trong đây niệm, là không lìa niệm đại bi, cớ sao nói không lìa niệm rốt ráo không?
Đáp: Bồ-tát không lìa niệm ấy, tâm không bỏ chúng sanh, vì  dùng vô sở đắc làm phương tiện vậy. Vô sở đắc không và rốt ráo không,  tên khác mà nghĩa một. Vô sở đắc không; vô sở đắc không ở đầu, rốt ráo  không ở sau; vì rốt ráo không là lớn, nên sanh tâm bi cũng lớn. Đại bi,  như trong Kinh A Sai Mạc[1] nói có ba thứ bi: Là chúng sanh duyên, pháp 
 
[1] T. 13: A-sai-mạt Bồ-tát kinh (阿差末菩薩經), quyển 4, tr. 599a13-17. 
 
 
 
* Trang 492 *

duyên và vô  duyên. Vô duyên từ bi từ rốt ráo không phát sanh, lấy đó mà giải sự nạn  vấn của Xá-lợi-phất. Phật ấn chứng lời nói ấy nên tán thán lành thay.  Nếu muốn giải nói Bát-nhã ba-la-mật, hãy nên như ông nói.
Bấy giờ ở trong chúng, hàng trời, người, Bồ-tát nghĩ rằng: Bát-nhã  ba-la-mật rất sâu, ba đời chư Phật đều từ trong đó xuất sanh, Tu-bồ-đề  là người Tiểu thừa, tại sao Phật tán thán, muốn nói Bát-nhã ba-la-mật,  hãy nên như ông nói, vì thế nên tiếp đến nói: Tu-bồ-đề nói đều vâng thừa  ý Phật. Giả sử như Di-lặc Bồ-tát, Phạm-thiên vương v.v... không nương  theo ý Phật còn không thể hỏi, huống gì Tu-bồ-đề ở trước Phật mà có thể  tự do vui nói. Các Bồ-tát muốn học Bát-nhã ba-la-mật cũng nên như ông  nói mà học.
Khi nói phẩm ấy, ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách là lúc  ấy ở trong hội chúng có nhiều Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh  giác, đều sẽ làm Phật.
Phật là chủ lớn của trời đất, địa thần hoan hỷ chủ ta nay xuất sanh nên khiến quả đất động mạnh.
* Lại nữa, người có tâm tin Bát-nhã ba-la-mật thâm sâu, là hy hữu khó  được, nên người ấy do nhân duyên phước đức mà cảm gió lớn làm rung động  nước, nước động nên đất động.
* Lại nữa, đại Long vương ở dưới đất muốn đến nghe Bát-nhã ba-la-mật, từ nước đi ra cho nên nước động, nước động nên đất động.
 
* Trang 493 *

* Lại nữa, do  thần lực của Phật khiến đất động, vì muốn khiến mọi người tăng lòng tin  vui Bát-nhã ba-la-mật khó thấy khó biết. Ngoài ra, nhân duyên làm đất  động, như trước đã nói, còn trong đây Phật tự nói nhân duyên là Ta nói  Bát-nhã ba-la-mật, mười phương chư Phật cũng nói Bát-nhã ba-la-mật, mười  hai na-do-tha trời người được địa vị bất thối, vào pháp vị, thế nên đất  động.
Lại, chúng sanh trong mười phương thế giới, cũng phát tâm Vô-thượng đạo, thế nên đất động.
Bấy giờ chư Thiên cũng có rải các thứ hoa sen và các tạp hương, áo  trời, lọng trời, ngàn vạn thứ kỷ nhạc trời. Các Long vương từ bốn biển  nước lớn vọt lên và các Dạ-xoa, La-sát v.v... đều sanh tâm từ, chấp tay  tán Phật. Lại khi Phật mỉm cười, vô lượng ánh sáng trùm khắp mười phương  các thế giới nhiều như hằng hà sa, có bấy nhiêu việc hy hữu. Nói cách  cốt yếu thì đất động đều do nói thật tướng các pháp, tức là Bát-nhã  ba-la-mật.
(Hết cuốn 53 theo bản Hán)
 
                                                             
 
* Trang 494 *
