Đức Di-Lặc nói pháp cho các đệ tử: “Tỳ-khưu các ông, hãy quán tưởng tư duy về vô thưòng, tưởng về sướng mà có khổ, tưởng về cho là ngã mà thật ra là vô ngã, tưởng về thực có mà là không, tưởng về sắc biến hoại, tưởng về bầm xanh, tưởng về trương phình, tưởng ăn không tiêu, tưởng về máu nồng, tưởng về tất cả những gì không đáng ưa thích của thế gian. Sở dĩ như thế là vì Tỳ-khưu phải biết mười thứ tưởng ấy đều do Thích-Ca-Văn Phật thuyểt cho các ông trong quá khứ, khiến cho tận hết hữu lậu, tâm đắc giải thoát. (1) Hoặc trong chúng này là các đệ tử của Thích-Ca-Văn Phật trong thời quá khứ từng tu phạm hành nên đến nơi Ta; (2) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng cúng dường Tam Bảo nên đến nơi Ta, (3) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật trong khoảng búng tay từng tu gốc thiện nên đến nơi Ta; (4) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng hành bốn tâm bình đẳng nên đến nơi Ta; (5) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng thọ trì năm giới, ba pháp tự quy y nên đến nơi Ta; (6) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng dựng chùa miếu thần nên đến nơi Ta; (7) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng sửa sang chùa cũ nên đến nơi Ta; (8) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng thọ bát quan trai pháp nên đến nơi Ta; (9) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng hương hoa cúng dường nên đến nơi Ta; (10) hoặc nơi Phật kia từng nghe pháp cảm thương rơi lệ nên đến nơi Ta; (11) hoặc nơi Thích-Ca-Văn Phật từng chuyên ý nghe thọ pháp nên đến nơi Ta; (12) hoặc từng suốt đời khéo tu_phạm hạnh nên đến nơi Ta; (13) hoặc từng viết, chép, đọc, tụng nên đến nơi Ta; (14) hoặc từng thừa sự cúng dường nên đến nơi Ta”. Bấy giờ Di-Lặc mới nói kệ này:
Tăng ích đức giới, nghe,
nghiệp thiền và tư duy,
hoặc khéo tu phạm hạnh,
nên đến nơi chỗ Ta.
Chăm, cho, phát tâm vui
Tu hành gốc nguồn tâm,
ý không bấy nhiêu tưởng,
đều lại đến nơi Ta.
Hoặc phát tâm bình đẳng
thừa sự các chư Phật,
cúng cơm dâng Thánh chúng,
đếu lại đến nơi Ta.
Hoặc tụng giới, khế kinh,
khéo tu, nói cho người,
sáng rực rỡ gốc pháp,
nay lại đến nơi Ta.
Thích chủng khéo giáo hóa,
cúng đường các xá lợi,
thừa sự Pháp, cúng dường,
nay lại đến nơi Ta.
Nếu ai ghi, chép Kinh,
tuyên rao trên lụa nõn,
ai có cúng đường Kinh,
đều lại đến nơi Ta.
Lụa là cùng các vật
cúng dường nơi chùa tháp,
tự xưng “Nam-mô Phật”
đều lại đến nơi Ta.
Cúng dường nơi hiện tại
Chư Phật và quá khứ,
Thiền định chính, bình đẳng,
Cũng không có tăng, giảm.
Thế nên nơi Phật, Pháp
thừa sự chư Thánh chúng,
chuyên tâm sự Tam Bảo
ắt đến chốn Niết Bàn. 📚
Tây Tấn, Nguyệt Thị Tam Tạng Trúc Pháp Hộ Hán dịch
Tỳ Khưu Nhất Chân Việt dịch
OM MAITRI MAHA MAITRI MAITRIYE SVAHA
Tất cả công quả của Bồ Đề Đạt Ma trong cuộc Đông độ đầu thế kỷ thứ VI là chuyển yếu tố “ngộ” ấy vào cơ thể Phật giáo cho những người
An Định Sự Thực HànhChủ đề thứ hai ở đây là “an định sự thực hành của chúng ta (brtan-pa)”. Bây giờ chúng ta đã hiểu trạng thái của Rigpa mà trước
Trí ấy đi vào giải thoát với sự thù thắng của một trong ba căn, tùy theo quán tuệ sanh khởi theo một trong ba cách.*👉 [Chú Thích: Khi tuệ đạt đến
Sự giác ngộ của đức Phật không phải là sản phẩm của một tri thức thuần tuý.Xã hội Aán độ thời đức Phật tại thế, có nhiều người có học thức theo
FOREWORDMan, in order to escape his conflicts, has invented many forms of meditation. These have been based on desire, will and the urge for achievement, and imply conflict and a struggle to
QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,
Giữ giới là lựa chọn tự do Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc
Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt