Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (7)


Xem mục lục

Truyện Bản sinh Pháp Tạng được ghi trong आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, tức सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][1],  bản Tây Tạng: ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ  Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, cùng nhiều Kinh Hán Tạng như: Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 360, Phật thuyết Vô lượng thọ kinh[2], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0364, Đại A-di-đà kinh[3], Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361, Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh[4], Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[5] v.v.. đều có ghi lại rằng Pháp Tạng đã bày tỏ bản nguyện của mình trước đức Như Lai Thế Tự Tại Vương.

Trong khi truyện Bản sinh Vô Tránh Niệm ghi ở trong  करुणापुण्डरीक सूत्रम Karuṇāpuṇḍarīka sūtram[6], phẩm phẩm दान-विसर्गस् तृतीयः III dāna-visargas tṛtīyaḥ, bản Tây Tạng འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་ཆེན་པོའི་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje-chen-poḥi pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[7], và bản Tạng ngữ thứ hai tựa đề là: འཕགས་པ་སྙིང་རྗེ་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa sñiṅ-rje pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo[8] thuộc Tây Tạng Đại Tạng Kinh số hiệu 111 – 112; cùng với bản dịch Hán ngữ của Đàm Vô Sấm dùng trong Đại Tạng Kinh 03, số hiệu 0157, Kinh Bi Hoa 2[9], ghi lại rằng Vô Tránh Niệm trình bày trước đức Như Lai Bảo Tạng.

Và điểm chung của hai nhóm kinh này, là sau đó, cả Pháp Tạng cũng như Vô Tránh Niệm đã được hai đức Như Lai trên ấn chứng trở thành Phật A Di Đà ở quốc độ Cực lạc phương tây.

Số lượng và thứ tự các bản nguyện của Pháp Tạng trong các bản văn không giống nhau. Đối chiếu các văn bản này như sau:

- Bản Sanskrit आमिताभव्यूह नाम महायान सूत्र Amitābhavyūha nāma mahāyāna sūtra, thường được gọi là सुखावतीव्यूहः। Sukhāvatīvyūhaḥ [विस्तरमातृका vistaramātṛkā][10], được lưu trữ ở trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17.  Nếu So với bản Hán dịch Vô Lượng Thọ kinh của Khương Tăng Khải, bản Sanskrit, bản Sanskrit này chỉ có bốn mươi sáu đại nguyện, không có nguyện thứ chín là thần túc vô ngại và nguyện hai mươi mốt là nguyện nhân thiên có ba mươi hai tướng tốt.

- Bản Tây Tạng ཧྥསཔ ཧོདདྤགམེདཀྱི བྐོདཔ ཤེསབྱ བ ཐེགཔ ཆེནཔོཧི མྡོ  Hphas pa hod dpag med kyi bkod pa shes bya ba theg pa chen pohi mdo, mà nội dung của bản này tương đương với Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[11] . Có bốn chín đại nguyện tăng thêm một nguyện thứ 38: “Bạch Thế Tôn! Sau khi con thành tựu Bồ-đề, nếu các Bồ tát ở các quốc độ Phật khi nghe danh hiệu A Di Đà thì đều cung kính lễ bái

- Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0361: Vô lượng thanh tịnh bình đẳng giác kinh [12], Chi Lâu Ca Sấm dịch, Hậu Hán, so sánh với Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh, 2 quyển, cũng do Ngô Chi Khiêm dịch, cùng với Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0364, Đại A-di-đà kinh, Vương Nhật Hưu, giáo tập, Tống[13]. Hai kinh ghi có hai mươi bốn lời thệ, nhưng nội dung và thứ tự lại không đồng nhất

- Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0360, Vô Lượng thọ kinh[14], bản dịch của Khương Tăng Khải và Đại Tạng Kinh 11, số hiệu 0310, Vô lượng thọ - Như Lai đệ ngũ hội, của Kinh Đại Bảo Tích Kinh[15], Nam Ấn Độ, Đường, Bồ Đề Lưu Chí dịch, có bốn mươi tám lời nguyện.

-Đại Tạng Kinh 12, số hiệu 0363, Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, 3 quyển, Tống Pháp Hiền dịch, có 36 lời nguyện. 

Xem mục lục