Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (14)


Xem mục lục

1. Người quay bánh xe

Tại Tây Tạng, ‘mani’ hay bánh xe cầu nguyện là một loại bánh xe với vô số mật chú và văn tự bí ẩn, thường được quay xung quanh một trục, cùng chiều kim đồng hồ. Nhiều ‘mani’ nhỏ như đầu ngón tay út, có thứ to như cả một căn phòng. Từ xưa, người Tây Tạng thường đặt bánh xe này trong dòng nước chảy để bánh xe được quay mãi với thời gian, để công đức của lời cầu nguyện lan tràn trong xứ sở. Tương truyền rằng, ai quay bánh xe hay treo cờ cầu nguyện trong gió, người đó sẽ thực hiện được ước nguyện của mình. 

Tỉnh Kham tại Tây Tạng cũng được ví như miền Tây hoang dã của nước Mỹ ngày xưa. Dân miền Kham vốn là dân kị mã và chuyên nuôi ngựa. Chỉ cách đây khoảng trăm năm, Kham gồm có nhiều tiểu quốc biệt lập có quân đội riêng. Ở đây người dân phải thi hành nghĩa vụ quân sự, không có thanh niên nào được miễn.  

Ngày xưa, ở miền Đông tỉnh Kham có một ông lão, người ta gọi tên ông là ‘lão quay bánh xe’, vì tay ông suốt ngày quay bánh xe cầu nguyện. Bánh xe này mang mật chú đại bi, Án Ma Ni Bat Mê Hồng, và do ông lão tự đẽo lấy.Bà lão vợ ông đã chết từ lâu, sau một cuộc đời đáng quý trọng và đã tái sinh trong một cảnh trời. Từ ngày đó, ông lão sống trong một lều đá với đứa con trai duy nhất mà ông hết lòng thương yêu. Đứa con này có một con ngựa tuyệt vời, và nó yêu con vật này hơn mọi thứ trên đời.Một ngày kia, con ngựa bỗng biến đâu mất, không còn gặm cỏ trên thảo nguyên, tìm đâu cũng không thấy. Nhiều người tốt bụng cũng đi tìm ngựa giúp ông, cuối cùng không tìm ra, họ bắt đầu than van cho số phận hẩm hiu của ông. Còn ông lão lại bình thường như không. Tay ông quay bánh xe và niệm chú ‘Án Ma Ni Bat Mê Hồng’, như người Tây Tạng hay thầm đọc mật chú đại bi này của chư Phật thương xót loài hữu tình. Ông nói với người hàng xóm thường than thở thay ông: ‘Bạn thân mến, than thở làm gì... Bạn biết không, cái đến, cái đi đối với tôi, tôi đều thầm cảm tạ cả. Cứ đợi đi ta sẽ thấy’.

Chỉ vài ngày sau, con ngựa bỗng quay trở về như một phép lạ. Và cùng với nó có hai con ngựa hoang đẹp tuyệt. Ông lão và đứa con trai bắt đầu sắm sửa đai cương cho ngựa. Hàng xóm mừng rỡ đến vỗ vai chia vui. Ông lão lại quay bánh xe và nói: ‘tôi hết lòng cảm tạ sự may mắn này, nhưng ai biết đâu, đợi đấy. Ta sẽ thấy’.

Vài tuần sau, đứa con trai cưỡi ngựa hoang bị té gẫy chân. Hàng xóm mang đứa con về, than khóc cho sự rủi ro này, đứa con không làm việc được nữa. Ông lão ngồi im lặng thì thầm trước giường con, nhưng không hề than thở. ‘Cảm tạ đức Quan Thế Âm, dù sao con tôi cũng còn ở bên tôi. Hãy đợi xem’.

Không đầy một tuần trăng sau, lính tráng nhà vua đi lùng sục bắt thanh niên nhập ngũ để chiến đấu chống quốc vương láng giềng. Chỉ đứa con nằm liệt giường kia mới khỏi bị kêu đi. Hàng xóm vui mừng cho ông, vì ông là người duy nhất còn có con trai bên mình. Ông lão mỉm cười, đặt bàn tay nhăn nheo lên đốt chân gãy của đứa con, đưa mắt nhìn ba con ngựa đang gặm cỏ ngoài đồng. Ông lão hát bài kệ tặng con:

“Cuộc đời mãi quay nhanh,
Lên xuống như bánh xe nước.    
Thân này đã hiện hữu bao lần, quay tròn vô tận,
Thân này đã lấy hàng ngàn dạng hình khác nhau
Mỗi loại dạng hình lại huỷ hoại, lại hình thành
Như đất sét ướt thành hình trên bánh xe người thợ gốm
Cái thấp sẽ lên cao, cái cao lại xuống thấp,
Rồi một ngày, cứ đợi đi,
Cái tối tăm sẽ sáng tỏ; người lắm của
Sẽ mất gia sản; mọi hình thái sẽ thay đổi,
Trong trò nhảy múa vô tận của hai mặt nhị nguyên.
Con ơi nếu con là một đứa trẻ đặc biệt,
Người ta sẽ khám phá ra con thuộc một dòng tái sinh
Và cho con vào tu viện với các Lạt-ma.
Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi chảy
Người ta sẽ cho con làm việc văn phòng
Và cột mình sau cái bàn viết.
Mỗi con ngựa tặng con một đống việc phải làm,
Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự tranh chấp,
Ai biết được, ngày mai nghiệp nào sẽ ào tới.
Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào nó sẽ chín,
Và sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc chắn.
Vì thế hãy tốt với mọi điều – vô tâm không phán đoán,
Không tham cầu điều ác xấu.
Tất cả, thêm hay bớt, được hay thua,
Đều chỉ là ảo ảnh.
Đừng hy vọng, cũng đừng sợ hãi, con ơi,
Đừng mong cầu, và vì thế cũng chẳng thất vọng.
Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi,
Và sống thuận theo lưới trời lồng lộng.
Hãy thật giản dị, chẳng lo âu
Và sống thuận tính đang ở trong con,
Và yên nghỉ trong niềm vui của tự tính.
Con có thể bắn bầu trời bằng bao nhiêu mũi tên,
Bao nhiêu cũng được con à
Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống đất tất cả. 

2. Lời cuối cùng của Milarepa

Jetsun Milarepa(1) là một vị Tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng, đồng thời là một du ca. Ngài sống cách đây khoảng chín trăm năm trong một hang đá ở Hi-mã-lạp sơn và đặt những bài ca kệ một cách bất ngờ, không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành sách và ngày nay, trong thế kỷ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để lại cho chúng ta.

Tương truyền rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong một đời làm người, và bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống độc cư hàng chục năm trời.Trong thời gian tu tập ngài sống bằng một loại rau mọc hoang, ví vậy da ngài mang màu xanh. Vì lẽ đó mà học trò ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng ngài, còn gọi là ‘tu sĩ màu xanh’.Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa (2), một nhà tiên tri nổi tiếng, đã từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo pháp ‘Đại Pháp Ấn ‘ từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi nhất của Milarepa là Gampopa(3) mà câu chuyện sau đây kể về ông. 

Gampopa là một y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông bỗng thấy linh ảnh của một vị Tăng sĩ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong ảnh đó, vị Tăng sĩ nhìn ông cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào mặt ông.Không bao lâu sau đó, Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều mà các vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn làm. Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn và quả nhiên gặp một người có da màu xanh, trông rất ốm yếu.Gampopa đi từ từ đến vị Tăng sĩ ở trần, chắp tay chào hỏi, đó là người đầu tiên ông gặp sau mấy ngày đi lạc.Milarepa nhếch mép cười khi thấy Gampopa ngần ngừ bước vào. Không nói gì cả, Milarepa đưa cho Gampopa một cái sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu cầu Gampopa uống hết, theo cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa thầy và trò. Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì giới luật không cho phép. Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã hiện, và nói ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám giữ vào một giới luật. Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó Gampopa nhìn vào mắt Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự thật: vị Tăng sĩ giác ngộ này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao truyền năng lực cho kẻ thông thái nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó. Cũng trong phút đó, Mirarepa biết đã tìm ra truyền nhân của mình.

Sau đó, Gampopa ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và nghe giảng pháp. Một ngày kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã tới lúc rời thầy ra đi. Tới ngày từ giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa quì dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư để hai chân lên đầu mình và nhận một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được tâm thức Đại viên cảnh trí của Phật.Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một lời nhắn nhủ cuối cùng. Milarepa nhún vai và nói: “Ngồi thiền thì ngươi còn phải ngồi nhiều và thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học nữa”.Sau đó, Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua khởi một con suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “Ta còn một lời dạy cuối cùng”, tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “Và lời này thật sự là bí mật và thâm sâu, riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong giới thượng căn”.

Gampopa yên lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng lại, vén váy lên và cho Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau nhiều năm ngồi trên đá. “Lời dạy cuối cùng của ta đây hãy nhớ”, Milarepa kêu to.

3. Qua sông

Dakini’ là những năng lực giác ngộ nữ tính, có thể hiện hình với những hình dạng bất kỳ và được người Tây Tạng tôn là ‘nữ thần nhảy múa’, vì các vị đó đại diện cho sự ‘nhảy múa’ của một nữ tính cơ bản, đó là thể tánh mà tự đó mọi hiện tượng mang tính không gian và thời gian xuất phát và sau cái chết lại qui hoàn. Vajra Yogini, ‘Nữ thần Kim cương’ được xem là chúa của tất cả Nữ thần. 

Một ngày kia, hai vị Tăng trên bước đường du phương đến bên một dòng suối nước chảy xiết, bên bờ có một bà cụ, mang bệnh hủi chờ ai đến giúp. Bà lão rên xiết, giơ hai bàn tay cùi hủi cầu khẩn hai vị Tăng giúp qua được bên kia suối.Vị Tăng đầu tiên quay mặt đi, tỏ vẻ kinh tởm mùi tanh hôi của thứ bệnh truyền nhiễm này. Vị đó vén váy và lội qua bên kia dòng. Qua rồi, vị đó đứng lại và đưa mắt tìm lại người bạn đồng hành.Vị Tăng thứ hai thấy thương xót bà lão và cuối cùng cõng bà lão trên vai. Ngay giữa dòng, vị Tăng hầu như không chịu nổi sức nặng và sắp bị nước cuốn đi. Vị thứ nhất vừa muốn nói ‘Đó, anh thấy chưa!’ thì một bài học xảy ra. Bà lão ngồi trên vai bỗng chốc biến thành Nữ thần Kim Cương của trí huệ và hiện ra trong vẻ đẹp rực rỡ, trên đầu vị Tăng thứ hai, người đang cõng bà lão qua suối. Từ trên không trung, Nữ thần thò tay trắng muốt đến vị Tăng đang chìm, kéo lên, đi vào thế giới của năng lực giác ngộ.

Vị Tăng thứ nhất đành tiếp tục cuộc hành trình một mình và sẽ còn suy nghĩ rất lâu về Trí huệ của lòng từ bi và về tính chất giả tạo của hiện tượng sắc thể.

4. Chiếc răng chó mầu nhiệm

Ngày xưa có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn Độ và Tây Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo: ‘Giác Thành’ (Bodh Gaya) tại Ấn Độ là nơi đức Phật Thích-ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như sự hiện diện của chính đức Phật trong nhà mình. Năm  này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực hiện được lời mẹ dặn.

Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này con không mang gì cho mẹ từ Giác Thành (4)  về để mẹ thờ, thì mẹ sẽ tự tử chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.

Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây giờ ?’, anh ta tự hỏi ‘Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó chết đã khô. Người con vội vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa.Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó,bà tìm được sự an lạc nội tâm,điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm.Cũng không bao lâu sau thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới ngày bà lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở về tự tính, từ đó mọi vật được sinh thành.

Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.

5. Bức tượng biết nói

Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy người có trình độ hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại Lhasa là linh thiêng hơn cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quý). Tượng Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây Tạng thời đó.Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben được lên đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái thánh địa này.

Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người mất hồn trong các con đường của ‘thành phố chư thiên’ này… nhìn thấy điện Potala (5), Ben thật là xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm (6) đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai Lạt-ma (7).Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như  Sêra và Drepung, nơi đào tạo Tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này’.

Sau đó Ben vào tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thực, toả ra một cảm giác tôn quý thầm lặng mà vĩ đại.Ben quỳ lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt với đôi ủng cũ kĩ, rồi chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói: ‘Hỡi Jowo Ripoche, hãy coi chừng giùm các thứ này để cho con yên tâm chiêm bái tiếp’.Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi toả sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành.Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời.Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben.Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: ‘Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quý ở xứ Kongpo của ta!’

Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ xuất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao quý’.

Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: “Ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai’.Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.

Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Tu viện Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần họ.

6. Giải thoát mọi loài

Một vị Lạt-ma già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái hồ để chuyên tâm thiền định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ đầy ếch nhái chuyên ăn côn trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên hoa để đạt tâm thức sâu kín của tự tính thì lại một lần ông thấy một côn trùng giãy giụa trong nước, dường như cần đến ông giúp đỡ. Lần nào cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử động cái xương cốt đã già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới lại nhập định.

Lần lần các vị tu tập thiền định và Lạt-ma khác bắt đầu chú ý đến ông, một người không bao giờ ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để giải cứu côn trùng. Tuy người Tây Tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài vật, nhưng có vài vị Tăng khuyên ông nên kiếm một chỗ khác thiền định chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘Nên chăng đi kiếm một nơi khác mà ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’ Có người nói: ‘Nên chăng trước hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể giúp mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác lại nói: ‘Nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chưyên tâm quán tưởng vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức mình’. Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các Tăng sĩ và nói: ‘Các bạn có lý, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âm, thực hiện hạnh nguyên đó trong đời này và mọi đời sau,lại có thể ngồi yên và đọc mật chú đại bi trong lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt mình?’

Không ai trả lời cả.

7. Kẻ phiêu bồng giác ngộ

Patrul Rinpoche(8) được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại Thành(Dzogchen) trong thế kỷ 18. Đại Thành (9) có nghĩa ‘Tri kiến trực tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy Đại Thành không phải chỉ là một tông phái hay một phép tu, không chỉ là một dòng tái sinh, không phải chỉ là trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh yếu của giáo pháp đức Phật. Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ là một vị đạo sư, thi sĩ hay nhà tiên tri, ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn. Thực ra, người ta xem ngài là một trong những tái sinh của đức Quán Âm mà người Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng đại bi. 

Có lần trong một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lạt-ma, các vị đó trên đường tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt-ma không nhận ra Patrul, thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ kiêm tốn, cho rằng đây cũng chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị lớn tuổi trong đoàn. Đoàn vừa đến vùng Kham thì có tin gần đó có một vị Lạt-ma cao cấp sẽ chỉ dẫn và khai thị cho đoàn. Nhóm Lạt-ma vội vàng lên đương để tham dự buổi lễ. Tất cả Lạt-ma và cư sĩ được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người được ngồi trên ghế trọng vọng, kẻ phải đứng ở xa. Các vị Tăng mang nón mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị Tăng thống ngồi trên một bệ cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn và phần nghi lễ đã qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để nhận phép lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.

Trước hết vị Tăng thống đưa tay rờ đầu các người đi ngang. Về sau khi thấy đoàn người quá nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn rờ đầu bằng một sợi lông công. Hàng giờ trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà cho một nhóm Tăng sĩ không mấy quan trọng.Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt đang quỳ dưới chân mình. Nguời đó không ai khác hơn hính là một vị Phật đang hiện tiền,vị đạo sư Đại Thành (dzogchen) Patrul Rinpoche độc nhất vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.

Vị Tăng thống nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần rách rưới. Đám đông hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị Tăng thống ngồi dậy, dúi vào tay Patrul Rinpoche sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị Tăng thống lên, không để cho vị này cứ quỳ lạy mình mãi.

8. Tu tập hạnh nhẫn nhục

Cách đây khoảng một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rinpoche chuyên độc hành mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không mấy người hay biết. Trên bước đường rong ruỗi, ngài có nghe nói đến một vị ẩn cư cả chục năm nay trong một hang động tối yăm, chuyên tâm thiền định và đã đạt được thần thông đáng kể.Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì cho người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên cạnh và cười thân thiện.Người tu sĩ nọ hỏi: ‘Ngươi là ai, từ đâu đến và đi về đâu trong cái xứ trơ trụi này?’ Patrul đáp: ‘Tôi đến từ sau lưng tôi và đi về phía trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘Thế ngươi sinh ở đâu?’

‘Ở trên trái đất’.

Tu sĩ bắt đầu mất kiên nhẫn: ‘Hãy nói tên ngươi ta nghe’. “Vô tích sự” –Patrul đáp. Sau khi trả lời, Patrul hỏi tại sao tu sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘Ta ngồi đây đã hai mươi năm để thiền quán và tu tập hạnh nhẫn nhục’.

‘Đáng khâm phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó Patrul kề môi nơi tai người tu sĩ: ‘Nhưng hai kẻ già đời như chúng ta đều biết thừa rằng chẳng bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’ Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là ai mà lại dám không kính nể ta?’

Patrul trả lời: ‘Vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn nhục của bạn đâu rồi?’

9. “Con chó thân mến”

Thời còn trẻ, Patrul Rinpoche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào thế kỷ 19. Vị thượng tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật tính ẩn náu bên trong thì Patrul gặp đại sư Doe Khyentse (10). Đây là một vị sư có tính tình kỳ cục và lần đó đã chận cửa không cho Patrul vào thăm một người bạn.‘Ê, hộ pháp vĩ đại kia, ngươi biết ta là ai không?,’ Doe Khyentse châm chọc.Patrul đã nghe danh ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng qua làng qua xóm, hăm doạ nhiều người, làm người ta giật mình sợ hãi, với mục đích là đánh thức giấc ngủ tâm linh triền miên của con người. “Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”, Doe Khyentse hăm. Patrul tới gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của Patrul, quật ngã sóng soài.

“Hơi thở của Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không chấp”, Patrul nghĩ thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của người khác. “Ngươi là kẻ dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa thích phân biệt”, ông hét. ‘Bộ ngươi không biết rằng tất cả đều thanh tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân mến!’. Ông giơ ngón tay út lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ nhất, nhổ vào mặt Patrul rồi đi mất.

Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ. Trong một tia chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của mình vốn không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thủy vô chung là một với thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật.Một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên trong bụi cát, nơi mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời chiếu rực trên đầu và không cần để ý người qua kẻ lại.

Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), ngài vẫn thường nhằc lại phương tiện giáo hóa của thầy mình và nói: ‘Nhờ tính bất ngờ vô song và lòng từ bi của đức Khyentse mà một trong những danh hiệu của ta là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp xứ sở. Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ”.

10. Ba người trên cây

Tu viện Katok được phương trượng tên là Dampa Deshek thành lập trong thế kỷ 12. Thời đó Dampa Deshek  được xem là một vị đại sư nổi tiếng, nhiều người xa gần đều đến khi nghe tin đại sư giảng pháp và cử hành nghi lễ Mật tông.Trong các dịp đó, đại sư Deshek thường ngồi trên bực của một bao lơn, các vị Lạt-ma cao cấp đứng hai bên tả hữu. Sân tu viện thường đầy chật người nghe, có kẻ phải leo lên nóc nhà, không bao giờ có dư một chỗ đứng.

Lần nọ, khi Dampa Deshek đã bắt đầu cử hành nghi lễ thì có ba vị Tăng khất thực xin vào nghe giảng nhưng không được trật tự viên cho vào vì không có một chỗ nào còn trống, dù là một góc nhỏ xa chính điện nhất. Ba vị đó là những người đi bộ từ vùng núi non hẻo lánh Gayrong đến, áo quần xốc xếch, mình đầy bụi bặm và mệt mỏi. Cả ba đành đi vòng quanh tu viện, cuối cùng họ tìm được một cây cao, từ trên cây nhìn xuống có thể thấy đại sư Deshek, nhưng xa quá nên không nghe được tiếng nào.Cả ba tìm dây trèo lên cây, ngồi vắt vẻo trên cành để nhìn vào chính điện. Nông dân gần đó thấy ba người hình dạng tả tơi, nhướng cổ ngồi trên cây, họ bảo nhau: ‘Xem kìa, ba con kên kên trên cây kìa, không biết đi từ đâu xa đến mà không được gì cả.’

Nhưng người nông dân đó đã lầm. Trong khi cử hành nghi lễ, Dampa Deshek có một cảm giác không thể nhầm lẫn rằng có ba người đang theo dõi hình ảnh của mình một cách chăm chú. Ngài liền tập trung năng lực mình lên ba người đó, đám đông không hề hay biết. Và ba vị Tăng khất thực trên cây bỗng hiểu rõ ràng ý nghĩa từng cử chỉ ấn quyết của đại sư mà không cần nghe một tiếng nào.Cuối nghi lễ thì huệ nhãn của ba vị Tăng được mở, tức là ba vị đã đạt thêm một quả vị nhất định. Vui mừng trước thành quả đó, Dampa Deshek đọc bài kệ:

“Emaho! Dạng hình sắc thể của các loài

Thật thiên hình vạn trạng và chỉ là ảo ảnh.

Hôm nay, ba con chim lạc bước đến đây

Và trong số những người đạt đạo ngồi quanh,

Họ đã đạt chính giác…

Ngoài đó bên kia vách tường của tu viện,

Ngồi trên đỉnh ngọn cây,

Cổ vươn dài

Emaho!”

11. Geshé Ben, kẻ cắp

Thời còn trẻ, Geshé Ben là một Tăng sĩ khất thực tại Tây Tạng và kiên trì giữ giới luật Đại thừa. Ben sống vào thế kỷ 11 và là một người tu tập nghiêm túc cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.

 Theo truyền thống Tây Tạng, một ngày nọ, Ben được một gia đình mời thọ thực. Trong lúc cả gia đình đang dọn bàn cho chú tiểu tăng đang đói bụng thì Ben lại vào trong bếp. Bỗng nhiên, Ben khám phá ra chính bàn tay mình đang thò vào một bao bố đựng đầy trà thơm ngát. Hoảng sợ, Ben kêu to: 'Ăn trộm, ăn trộm’ và tự đánh vào bàn tay tham lam của mình. Cả gia đình chạy vào bếp:’Tên ăn trộm đâu?’, người cha gầm lên và cầm sẵn cây gậy để bảo vệ cho gia đình. ‘Đây, đây’, Geshé Ben mặt đỏ hồng hổ thẹn ‘Tôi vừa tự bắt gặp chính mình đang lợi dụng lòng tốt của quý ngài’. Sau đó Geshé Ben nguyện lớn rằng, sẽ tự chặt tay nếu còn tái phạm.

Gia đình tín đồ nọ mỉm cười vui vẻ và khoát tay bỏ qua nhưng họ biết rằng vị đại sư nội tâm của chú tiểu tăng này đã lên tiếng và họ đang chứng kiến một biến cố quan trọng. Họ nghiêng mình kính cẩn trước người khất thực trẻ tuổi này như trước một vị Lạt-ma cao cấp và cám ơn đã nhận được một sự biểu lộ khó quên của Trí huệ cao tột.

12. Phẩm vật cúng dường cao quý nhất

Geshé Ben sống nhiều năm trong một hang động núi non ở Hi-mã-lạp sơn. Bao nhiêu thế hệ các vị tu sĩ ngày trước đã từng sống ngay trong hang động đó và ngày nay còn lại một cánh cửa đá, một bàn thờ đá và một nơi nhóm lửa.

Sau một thời gian dài chuyên tâm thiền định và độc cư, nhờ phép truyền tâm, Geshé Ben biết rằng một nhóm dân làng sắp mang lại thức ăn và phẩm vật cho mình và hy vọng ông sẽ ban phước lành. Mọi người Tây Tạng đều biết rằng, được một vị Bồ-tát hay tu sĩ đích thực độ trì sẽ mang lại sức mạnh to lớn.Geshé Ben bắt đầu lau chùi hang động sạch sẽ, sửa soạn các đồ đạc và bày biện bàn thờ, cố gắng làm tốt nhất trong điều kiện một nơi hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn. Sau đó, Geshé Ben ngắm nghía một cách hài lòng.Chỉ chốc lát sau, ông bỗng thấy ý nghĩa những gì mình làm, tự nhủ ‘đồ ngốc nghếch’. Sau đó ông ra ngoài cửa động hốt một nắm bụi và rác rưởi, ném lên bàn thờ vừa chùi dọn sạch sẽ.“Ta sống ra sao thì cứ để mọi người thấy như vậy,” Ben nói. “Phẩm vật cúng dường đâu phải để lấy lòng mua chuộc ai, mà để dâng cúng Phật tính đang hiện tiền”. Ben tự nhủ và nói tiếp: “Xong rồi, các bạn có thể đến đây!”

Nhiều năm sau đó có một vị Tăng đắc đaọ từ Ấn Độ qua thăm Tây Tạng và nghe câu chuyện này. Trước mặt các vị Lạt-ma cao cấp và các vị Tulku (dòng tái sinh các Lạt-ma),đạo sư Padampa Sanjay nói: 'Hay, nắm bụi đó là phẩm vật cúng dường cao quý nhất từ xưa đến nay trong cả xứ này”. Geshé Ben đã cúng dường lên bàn thờ trong động cái tự ngã của chính mình.

13. Geshé Ben và lương tâm

Có lần Geshé Ben được mời thọ thực với các vị Tăng sĩ cao cấp trong phái. Chủ nhà là những tu sĩ giàu có, sống trong các cung điện vùng Penyul, miền Nam Tây Tạng. Trong điện, họ trang hoàng phòng cầu nguyện một cách lộng lẫy và mời các vị Tăng sĩ an toạ: các vị trưởng lão ngồi trên cao, các vị trẻ tuổi ngồi dưới thấp. Theo tuổi tác Geshé Ben ngồi khoảng giữa và đợi thức ăn đem đến.

Theo truyền thống Tây Tạng thì bát ăn và chén uống của các vị Lạt-ma lúc nào cũng phải đầy, vì thức ăn được xem là phẩm vật cúng dường lên tâm giác ngộ, mà các vị Lạt-ma là hiện thân của tâm thức đó. Khi chủ nhà và những người hầu cận vừa dọn sữa cho các vị trưởng lão thì Geshé Ben bắt đầu nóng ruột. Chỉ nhìn qua Ben đã thấy bình sữa xem ra hơi nhỏ và đến phiên mình chắc đã cạn sạch. Vừa nghĩ đến đó, Geshé Ben tự nói to: "Ôi tham lam". Ben xoay mặt không nhìn bát gỗ để trước mặt mình và im lặng trước cái nhìn khó hiểu của các bạn đồng tu. Sau đó, người ta đem thêm sữa vào và sắp sửa cho vào bát của Geshé Ben thì ông chận tay lại nói: "Không cám ơn, ý nghĩ tham lam của tôi đã ăn hết phần của tôi rồi".

Theo phương cách này, người tu hành quan sát nghiêm túc những ý nghĩ và cảm nhận chớm nảy sinh trong lòng mình và biến chúng thành những bước tiến bộ trên con đường đạo.

14. Cách tu hay nhất

Có một vị Tăng cứ đi vòng xung quanh tu viện Peltring mãi vì nghe nói rằng có người nhờ thế mà đạt được thánh kiến. Ngày qua ngày vị Tăng nọ cứ đi hoài như thế đến lúc gặp đại sư Geshé Tempa. Vị đại sư vỗ lưng vị Tăng tội nghiệp và nói: "Thật ra thì đi vòng quanh một thánh địa cũng được đấy, nhưng tốt hơn là nên tu học yếu tính pháp Phật".Nghe xong, vị Tăng gật đầu và bắt đầu đọc Kinh sách nằm lòng và tụng niệm. Không bao lâu sau, Geshé Tenpa trở lại, lại vỗ lưng vị Tăng và nói: "Tụng Kinh đọc sách thì cũng được đấy, nhưng tốt hơn là nên tu học pháp Phật bao trùm rộng khắp’.

Vị Tăng suy nghĩ rất lâu. Cuối cùng vị đó bắt đầu tu tập thiền định. Tất nhiên sau đó Geshé Tenpa lại tìm thấy vị đó ngồi thiền định trong một góc nhà, đang dùng toàn lực để không nghĩ ngợi tới điều gì cả. Vị đại sư nói "A, con đang thiền định, hay thật đó, nhưng tu tập đúng pháp Phật đích thực thì hay hơn nhiều’.Bây giờ thì vị Tăng hoàn toàn mất phương hướng. Không có phép nào mà ông không tu. ‘Nhưng bây giờ con phải làm gì nữa đây, thưa thầy?’

‘Buông bỏ những gì con đang bám giữ’, Geshé Tenpa nói. ‘Lúc đó, con chính là con và cái đơn giản này chính là bước khởi đầu và cũng là mục đích’.

15. Đạt-lai Lạt-ma và người chăn trừu 

Cách đây khoảng ba trăm năm, Kelsang Gyatso (11),Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy là người hay rời bảo tháp của mình trong điện Potala và đi vào trong dân chúng để tìm hiểu đời sống và nguyện vọng thực sự của thần dân.Nhờ mặc áo quần bình thường của một kẻ hành hương, kéo mũ thật thấp, vị Đạt-lai Lạt-ma, hiện thân của đức Quán Thế Âm, đã đi một mình mà không ai biết trong các đường phố Lhasa và bắt đầu hành cước về những vùng xa.Ngài đi từ làng này qua làng nọ, sau đó đến hồ nước mặn Yamdrok Tso khoảng miền Trung Tây Tạng và nơi đó ngài gặp một người chăn trừu ít khi gặp tha nhân, mừng rỡ mời ngài ăn tối và cùng ngủ dưới trời khuya, xung quanh là đám trừu cho chút hơi ấm.

Hừng đông, sau bữa ăn sáng bên bếp lửa, Đạt-laiLạt-ma chào tạm biệt và nói: 'Nếu ngày nào bạn có về thánh địa Lhasa thì cứ hỏi nhà của Kelsang Gyatso, bạn sẽ được tiếp đãi ân cần’. Người chăn trừu hỏi lại: 'Làm sao một người như tôi, không biết đọc biết viết mà có thể tìm ra nhà bạn trong kinh đô đông đúc như thế’. Người lữ hành đáp: 'Tôi tin bạn. Nhưng tên Kelsang Gyatso cũng không đến nỗi vô danh tại Lhasa. Hãy hứa với tôi, bạn sẽ thăm tôi để tôi đền đáp lòng tốt của bạn’.Nhờ lời mời này mà người chăm trừu quả nhiên lên đường viếng Lhasa vài năm sau. Như mọi người hành hương, ông luôn luôn cầu nguyện và nghiêng mình tới đất cúi lạy phương hướng mình sắp đến. Vài tháng sau, ông đến một công trường lớn gần điện Potala. Với giọng địa phương Yamdrok, ông kêu réo mọi người: 'Nào, nhà của Kelsang Gyatso đâu? Ai biết không? Sao? Ông ta trốn đâu rồi? Tôi đến thăm ông ta đây!’

Tiếng ồn ào kêu réo làm hai người bảo vệ của điện chú ý và bắt kẻ làm ồn này đem về cật vấn giam giữ. Thế nhưng, người chăn trừu không hề sợ và nhất định kể lại câu chuyện khó tin đó. 'Kelsang Gyatso đã mời ta mà. Các ngươi điên rồi sao, đám dân thành phố vô dụng’.

Nhiều người biết chuyện này và cuối cùng đến tai Đạt-laiLạt-ma. Ngay tức khắc, ngài ra lệnh cho người chăn trừu miền Yamdrok đến.Người chăn trừu đang ngồi trong ngục tăm tối thì được đưa ra ngoài. Với hai vị Lạt-ma cao cấp đi theo hai bên và bước lên vô số bậc thang, kẻ chăn trừu nọ xuyên qua bao đường quanh co, qua bao nhiêu phòng cầu nguyện, cuối cùng đi vào phòng tiếp khách của vị nguyên thủ quốc gia.Ở đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy đã ngồi đợi sẵn, trên ghế hoàng triều và chào đón người chăn trừu với niềm vui hội ngộ. Qua bao nhiêu cung điện, người chăn trừu đã không nói được vì kinh ngạc; do vậy cũng không còn hơi sức đâu để hỏi làm sao người hành hương năm xưa lại chóng giàu như thế. Ông cúi đầu ba lần, như mọi người Tây Tạng đều làm trước một vị Lạt-ma và đặt dưới chân Kelsang Gyatso một tấm khăn trắng xem như phẩm vật.Sau đó ông ngồi trên nền đá lạnh trước Đạt-lai Lạt-ma và nhìn ngài thân thiện. Ngài chỉ một ghế bên cạnh, bọc bằng thảm len mời ngồi. Nhưng người chăn trừu khoát tay: 'Không, tôi không ngồi đâu. Ghế đó làm bằng thảm lụa sang trọng, có hình Man-da-la. Ghế đó là chỗ ngồi của ông trời. Tôi không dám ngồi đâu’. Mắt Đạt-lai Lạt-ma ngời lên những ánh sáng từ bi và quý trọng. Người chăn trừu phấn khởi nói tiếp: 'Và bạn, Kelsang thân mến, bạn ngồi trên một thứ ghế bằng nhung lụa gì khó hiểu. Bạn làm tôi nhớ có những con trừu thích leo lên trên một đỉnh đồi cao rồi không xuống được nữa. Bạn cần tôi giúp bạn xuống đây không?’

Không, Đạt-lai Lạt-ma tự xuống một mình và ngồi bên cạnh người chăn trừu miền Yamdrok. Người này nói tiếp, góp vài ý để sửa đổi trong cung điện to lớn nhưng lạnh như băng này của chủ nhà, 'Nền nhà lạnh quá mức’, ông ta nói, ‘nhưng không sao, khi về lại Yamdrok rồi, tôi sẽ kiếm ít lông trừu gửi lại đây cho bạn đỡ lạnh chân. Tôi sẽ cho một con Yak(trâu)chở lông trừu lại, hứa với bạn đấy’.Đạt-lai Lạt-ma vui vẻ nhận lời và sau đó cho người hầu cận rút lui để một mình truyện trò với người chăn trừu. Cả hai cười vui và kể những chuyện đã xảy ra trong ba năm qua. Lúc đó Đạt-lai Lạt-ma cũng chưa kể thật tung tích của mình. Sau đó ăn uống xong, người chăn trừu đứng dậy nói: 'Bây giờ tôi muốn xuống chợ xem quang cảnh hàng hóa ra sao mà người ta kể tôi nghe rất nhiều. Sau đó tôi sẽ đi chơi và xem thắng cảnh ở Lhasa. Mà, Kelsang ơi, bạn đừng giận tôi nhé, nhưng nhà bạn quá sang và không được thoải mái lắm. Tôi thích ngủ trong một túp lều hay giữa trời sao với đàn trừu hơn’.

‘Trước khi đi’, Đạt-lai Lạt-ma nói, ‘bạn được lựa và lấy một phẩm vật trong số các thứ mà tôi phải trông coi. Bạn bè thì đối xử như thế’. Thay vì đòi đi các phòng của cung điện để tìm một tượng Phật bằng vàng, một tấm tranh lụa xưa hay một cổ vật treo tường thì người chăn trừu đáp: 'Nào vàng, bạc, lụa là, như tôi đâu có cần thiết, phải không?’ Cả hai đều cười và người chăn trừu nói tiếp: 'Bạn biết không, tôi chỉ muốn có một chóp mũ trên đầu như bạn cũng như sợi dây đỏ để buộc lại, y như bạn’.Đạt-lai Lạt-ma hỏi cẩn thận:  "Bạn phải gội đầu và xoa dầu mới được đấy”.

“Ôi đâu cần!”

Đạt-lai Lạt-ma cho đem lược đến. Ngài cất mũ của mình và kéo sợi dây đỏ đang mang ra ngoài. Sau đó ngài tự tay chải cái đầu đầy chấy rận của anh chàng này và tết lại thành bím. “Nghi thức đòi tôi phải mang hai cái bím trên đầu”, ngài giải thích, “nhưng không có ai giúp nên tôi chỉ thắt tóc bạn lại thôi, và sẽ gắn thêm tóc tôi vào tóc bạn để chóp mũ này nằm chắc trên đầu”.

“Mang cái chóp mũ này thì dễ cho tôi thôi,”người chăn trừu vui vẻ. “Bạn thật là một anh chàng tốt bụng, Kelsang, nhưng bây giờ tôi phải từ biệt, phải xỏ giày đi đây. Đừng bực mình vì tôi không ở lâu được nhé”.Với chóp mũ trên đầu, anh bạn người Yamdrok vui sướng khi rời khỏi cung điện lạnh lẽo. Ngang đến cửa anh ta còn quay lại kêu to: 'Xem chừng con trâu sẽ đến. Có thể vài tháng nữa thì lúc đó các phòng của bạn đều ấm cả. Cứ tin đi'.

Vì câu chuyện này mà Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy vẫn còn nhắc nhở đến người chăn trừu mãi, mà ngài gọi là 'Bạn thân Yamdork-Pa”. Và cũng vì câu truyện này mà ngày nay tất cả ngươi chăn trừu vùng Yamdrok đều mang một bím tóc và một sợi dây cột tóc màu đỏ.

16. “Mũi ngựa” ra đi

Tại miền Đông Tây Tạng, không xa một tu viện nọ có một tu sĩ khất thực đã già, biệt danh là "Mũi ngựa”. không ai ưa nổi vị tu sĩ này, từ dáng điệu cho đến thái độ hàng ngày.  Ông ta chỉ làm được công việc duy nhất là tìm nơi lông chó và đám ăn xin các thứ như chấy rận nhưng không để giết mà cứu chúng được sống.

Ngày nọ, tu viện cũng xua đuổi ông vì xem ra ông không chịu học tập kinh sách gì cả. Ông đành ngồi trước cửa tu viện, miệng lẩm bẩm cầu kinh và bắt chấy cho chó. Sau đó miền Đông Tây Tạng chịu một nạn dịch khủng khiếp và các bác sĩ cho rằng bệnh này do một loại bọ đen gây ra. Thế nhưng cả bác sĩ lẫn các Lạt-ma cao cấp đều bó tay, không ai chặn đứng được nạn dịch lan tràn.“Mũi ngựa” cũng lâm bệnh nặng và nhiều người thấy rằng ông lâm bệnh sau khi thực hành phép 'Tonglen’ suốt ngày đêm bên đống lửa của mình.Tonglen là một phép tu bằng cách chú tâm cao độ và cầu nguyện để mình được chịu thay cho sự đau khổ và ác nghiệp của người khác, các ác nghiệp đó thể hiện lên thân thể của chính mình. Tonglen là một phép tu bí mật của các vị Bồ-tát, là các vị đã thệ nguyện không màng đến sự giải thoát của bản thân mình trước khi mọi loài hữu tình khác được giác ngộ.

Sau đó người ta đồn rằng “Mũi ngựa” đã hành trì phép tu Tonglen với lòng vị tha tuyệt đối vì ông chỉ vừa lâm bệnh thì loài bọ đã biến mất và bệnh dịch cũng chấm dứt. Người ta cho rằng “Mũi ngựa” đã chịu nhận toàn bộ ác nghiệp của cả vùng và mọi người chuẩn bị cho cái chết của ông bằng một buổi lễ long trọng. Các vị Lạt-ma cao cấp tụng các kinh luận “bardo” và cầu cho tâm thức người chết được tiếp dẫn về cõi  Tịnh độ của Phật. Nhờ nhiều dấu hiệu đặc biệt mà các Lạt-ma thấy rằng “Mũi ngựa” đã được Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) tiếp dẫn trong khoảnh khắc lúc chết. Các vị đó cũng nhờ thiên nhãn thấy rằng “Mũi ngựa” đã được thác sinh về cõi Tịnh độ phương Tây-nam và báo thân các vị Phật và Bồ-tát đại bi đã bao bọc chung quanh tâm thức “Mũi ngựa”.Liên Hoa Sinh (12) hỏi ngay thần thức “Mũi ngựa” như sau: “Ngươi đã giúp cho những ai được giác ngộ, kể từ ngày ta gửi ngươi đi Tây Tạng?”

“Mũi ngựa” mở bàn tay ra và chỉ cho đức Phật (Liên Hoa Sinh) hàng ngàn con chấy. Nhìn thấy như thế, các vị đại sư và Bồ-tát bỗng tỏa hào quang rực rỡ như mặt trời từ bi, biến thành ánh sáng thuần tuý và đưa “Mũi ngựa” vào cõi Vô lượng quang, là nơi ngài còn lưu trú tới ngày hôm nay.

17. Tu sĩ trên cột cờ

Drukpa Kunley (13) là một tu sĩ ngang tàng, từng tu học theo trường phái Drukpa Kagyu. Ông không hề sợ khi bóc trần các trò lừa đảo hay nịnh bợ trong các giới tu học, kể cả trong các trường phái tiếng tăm hay tu viện lâu đời. Lúc sinh tiền, ông đã nổi tiếng là một đại sư Mật tông, đã giúp nhiều người tầm đạo thấy sự thật một cách dễ dàng.

Lần nọ ông đi ngang qua sân một tu viện đang cử hành lễ lạc long trọng. Hàng trăm nhà sư đang ngồi theo phẩm trật trong thế liên hoa, miệng tụng KinhKim Cương, là Kinh giảng giải thể tánh cuối cùng của tạng vật. Ngày hôm đó, xem ra ông không có gì để làm nên không ai mời, mà ông cứ vào tu viện, chắc là để mang chút mới lạ vào đời sống buồn tẻ trong đó.Mặc dù Drukpa Kunley có dáng điệu như một tên khùng đi lại ngớ ngẩn nhưng rõ ràng ông phát ra một sức thu hút đặc biệt, khác với các vị tu sĩ khác. Đối với người Tây Tạng thì dấu hiệu đặc biệt của người đắc đạo chính là sự chú tâm sắc sảo và một chút hóm hỉnh kín đáo. Cũng vì thế mà ngày đó người ta đã thừa nhận ông cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn xem ông như một vị thánh.

Các vị sư đang rầm rì nghiêm trang tụng Kinh thì Drukpa Kunley đi ra giữa sân và nhanh nhẹn leo lên cột cờ, nhanh như một con sóc mà chung quanh không ai để ý. Lên đến đỉnh cột, ông quạt hai cánh tay như muốn bay và giả kêu tiếng chim. Các vị sư cố giữ tĩnh tâm tụng Kinh tiếp tục, nhưng tiếng ồn ào trên đỉnh cột đã phá vỡ buổi lễ.Các vị sư cố gắng tự chủ, kiên trì tụng Kinh, chống lại ảnh hưởng của ngoại cảnh. “Nhờ sức mạnh của Kinh này mà các yếu tố bất thiện sẽ tự rút”, các vị tụng đọc liên tục. Lời Kinh này xem ra có hiệu quả vì ông tu sĩ bốc đồng nọ trèo xuống thật, mặt mày nhăn nhó.Các vị sư phấn khởi đọc tiếp: 'Sức mạnh do sự chú tâm sẽ loại bỏ u minh ra khỏi chúng ta'.

Vừa tụng xong câu này, người tu sĩ dở hơi nọ leo thẳng lên cột và kêu to làm ai cũng nghe thấy:

“Con vẹt không thể chú tâm,

Vì, dù nó có tụng Kinh kệ ngàn lần,

Nó cũng không bao giờ hiểu

Ý nghĩa đích thực của Kinh.”

18. Đầu bếp giác ngộ

Ngày xưa có một người đầu bếp tên là Ma-Tschen-La, ông sống trong một trong những tu viện lớn nhất Tây Tạng và mỗi ngày phải nấu nướng cho hàng trăm người ăn. Năm này qua năm khác, lúc nào ông cũng đứng dưới thứ thịt trâu hun khói và cứ quậy mãi cái nồi to tướng, nấu thức ăn và trà bơ bổ dưỡng cho các vị đồng tu.

Ai cũng mến Ma-Tschen-La, chỉ vì muốn được hàng ngày sống trong bếp của ông, trong đó chứa đựng một thứ năng lực kỳ diệu.Sau khi ông chết, tu viện tổ chức một buổi lễ hết sức trọng thể, chỉ dành riêng cho các đại sư, dù rằng mọi người đều biết, đối với Ma-Tschen-La thì vứt xác cho kiến mối hay kên kên ăn thịt thì cũng chẳng hề gì.Trong buổi lễ, xác của Ma-Tschen-La được chất lên một giàn hỏa, các vị sư ngồi xung quanh bắt đầu tụng niệm và châm lửa. Khi ngọn lửa vừa đến đỉnh đầu, người ta thấy xuất hiện một hào quang ngũ sắc. Sau đó xuất hiện vòng thứ hai, thứ ba, rồi không ai đếm nổi bao nhiêu vòng ngũ sắc đã xuất hiện trên xác người đầu bếp. Qua dấu hiệu này, người ta mới nhận ra, người đầu bếp ngày trước là một vị thánh vô danh suốt hàng chục năm.Ngay sau đó người ta kể vô số chuyện về người đầu bếp đắc đạo, đã thực hiện được thánh quả mà kẻ khác chịu bao nhiêu khổ nhọc mà cũng vẫn chưa đạt được.Người ta kể rằng, Ma-Tschen-La, trước khi trở thành đầu bếp, là người đã từ bỏ mọi tham cầu, chỉ cần cái đang có sẵn. Ông đã nhận ra rằng mọi cầu mong đều chỉ vô ích, một ngày kia đã từ bỏ tư tưởng về một cái ta, tự mình trở về thể tánh chân như và thể nhập trong đó.Người ta kể rằng Ma-Taschen-La không hề bám giữ hay từ chối bất cứ điều gì và vì thế cũng chẳng cử hành bất cứ nghi lễ gì, cũng chẳng học tập kinh điển làm gì. Nói thế nhưng cũng có người phản đối ngay, tiết lộ rằng từng nghe Ma-Tschen-La hay niệm danh hiệu Quán Thế Âm và Bồ-tát Tara.

Dù gì đi nữa người ta vẫn cho rằng ông đầu bếp là người sớm đắc đạo hơn ngài phương trượng; ngày nay chuyện về Ma-Tschen-La vẫn còn được nhắc nhở. Ma-Tschen- từ Tây Tạng có nghĩa là “đầu bếp” và Ma-Tschen-La là người đầu bếp cho tất cả mọi người cần đến.

19. Tên trộm hối cải

Patrul Rinpoche là người truyền đạo ở mọi nơi mà ngài đặt chân đến. Có lần ngài đến Zamthang và được một người đàn ông nghèo khổ tặng cho một móng ngựa bằng bạc vì quá cảm kích ngài. Người đó đặt tặng phẩm dưới chân ngài và ép ngài phải nhận. Tặng phẩm bằng bạc này là vật quý giá duy nhất mà người đó sở hữu, nhưng ông ta cũng biết rằng mình dâng cúng món này sẽ tạo được một công đức cao quý ở một cấp khác.

Một tuần sau đó, Patrul lại lên đường đi từ làng này qua làng khác mà trong một vùng ít dân như ở Tây Tạng thì gần như đi từ nhà này qua nhà khác. Lần này Patrul bị một tên trộm theo dõi, y đã thấy Patrul nhận tặng phẩm quý giá nọ.Patrul đi trong hoàng hôn, lòng không chút vướng bận và khômg có mục đích nào khác hơn là kiếm một chỗ ngủ dưới bầu trời sao. Tại một nơi, Patrul kiếm một hang kín gió và nhắm mắt ngủ. Tên trộm đợi một lát, sau đó từ từ bò đến chỗ ngủ, mò mẫm bình nấu trà, rồi túi xách vai và cuối cùng mò đến bộ áo dài bằng lông trừu, trong đó Patrul nằm cuốn tròn vì cái lạnh ban đêm.“Ka-hô”, vị đại sư lầm bầm, “Ngươi mò cái gì trong áo của ta đấy?”

“Cái móng ngựa bằng bạc đâu rồi? Tôi biết, ông giấu trong áo”.

“Trời đất”, Patrul thở dài, “Xem này, ngươi làm cái gì với cuộc đời ngươi thế? Ngươi theo ta suốt cả dặm đường, qua bao nhiêu cảnh vắng vẻ trơ trọi, chỉ vì cái miếng kim loại đó sao. Nghe đây, hãy đi lui hết đường cũ, tìm cho ra chỗ ta đốt lửa, nơi ta giảng pháp và ngủ tối tại Zamthang. Giữa đống tro và mấy viên đá, ngươi sẽ thấy miếng bạc đó. Ta dùng nó để kê bình trà”.

Tên trộm không hề tin những gì ngài nói, nhưng vì y kiếm hoài không ra nên đành trở về chỗ cũ, cuối cùng y tìm thấy ngọn đồi con, nơi Patrul đã nói chuyện với dân làng Zamthang. Tên trộm quả nhiên đào trong tro ra miếng bạc quý, y nhìn ngắm một hồi lâu. Nhưng bây giờ, khi miếng bạc đã vào tay, tên trộm không còn thấy vui sướng nữa. “Ôi”, y than thầm, “rõ ràng ông Patrul này không còn quan tâm đến của cải thế gian nữa và ông đúng là một đạo sư đích thực. Còn ta, nghiệp báo vốn đã xấu xa rồi bây giờ còn gây thêm ác nghiệp ăn trộm đồ của ông nữa, trong tương lai chắc phải chịu trừng phạt khủng khiếp”.

Tên trộm biết hổ thẹn đó đứng dậy và lên đường đuổi theo Patrul. Ba ngày sau, tìm thấy ngài trong khung cảnh hoang vắng, y chạy theo kêu réo. Patrul gọi lại :”Máu tham của ngươi vẫn còn hay sao? Ta đã chỉ ngươi tìm miếng bạc. Ngươi còn muốn gì nơi ta?”

Tên trộm nước mắt đầm đìa, quì xuống chân ngài: "Tôi, tôi đã thấy miếng bạc, nhưng tôi làm gì vói nó đây? Vì nó mà tôi đánh mất bao nhiêu điều trọng đại khác. Hãy nghe lời sám hối của tôi, ông là một đạo sư đích thực, hãy tha thứ cho tôi.”

Patrul nói: "Không cần thiết. Hãy trở về với nội tâm của ngươi, hãy qui y Phật, đó là tâm thức sâu kín nhất của ngươi; hãy qui y Pháp, đó là nhận thức của chưPhật; hãy qui y Tăng, đó là toàn thể những người cũng muốn học hỏi nhận thức đó”.

Tên trộm nghe lời một cách thành tâm và Patrul nhận y làm đệ tử ngay tại chỗ. Vài năm sau, có kẻ nhắc lại câu chuyện này trong làng Zamthang. Một nhóm người nghe xong nóng tính mang gậy guộc đến nhà tên trộm và lôi y đến gặp lại Patrul đang ở gần đó.“Thả nó ra”, Patrul kêu lên khi thấy các tín đồ hành hung đệ tử của mình, “các ngươi không biết rằng khi đụng đến người khác cũng là đụng đến ta chăng? Cái tự tính trong mỗi người chỉ là một với nhau, dù cho tự tính này mang nhiều dạng hình khác nhau, mỗi lúc mỗi khác, lúc nào cũng mới mẻ. Các ngươi không thấy sao?”

Lời nói của Patrul có một năng lực mạnh mẽ làm ngay lúc đó có nhiều ngươi đạt tuệ giác và đã nhận ra được một phần của chân như vốn không thể nắm bắt.

20. Ba điều ước

Ngày xưa có một nông dân nghèo tên là Dorje, hàng ngày phải vật lộn với miếng đất khô cằn, chịu bao nhiêu khổ nhọc mới có miếng bánh mì. Mỗi ngày Dorje đi làm về thì lại không được lời an ủi nào của vợ mình, vì Pemala vợ ông lúc nào cũng chê bai, không chịu làm kiếp vợ một ông nông dân. Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Dorje chỉ mong có điều duy nhất là bà vợ ngày nào đó sẽ câm luôn. Ông cầu nguyện thật sự điều đó, ngoài ra ông không còn biết điều gì cao quý khác.

Một buổi sáng, lúc Dorje còn đang cày thửa ruộng lúa mì thì bỗng nhiên có một bóng người đàn bà từ xa đi tới. Người đó phát ra hào quang như một bà tiên, Dorje lập tức quì xuống xin ban phước.Bà tiên cho Dorje hơn cả một điều ước: "Ngày hôm nay, ba điều ước của ngươi sẽ thành hiện thực”. Bà tiên nói xong liền biến mất ngay trước mặt Dorje.Dorje run rẩy đặt cày xuống và đi thẳng vào nhà. Trời còn sớm nên Dorje biết rằng sẽ bị vợ mắng chửi, nhưng ông phải kể cho vợ mình nghe đã gặp bà tiên và đã được bà ban cho ba điều ước. Trong mọi trường hợp, ông cần có thì giờ để bàn bạc với vợ, và làm sao đạt được điều tốt nhất từ cơ hội vô song này.Dorje vừa tới cửa nhà nằm trên đồi thì Pemala bước ra và bắt đầu trách móc: “Ông muốn cái gì đây, đồ bị gạo? Vợ ông không có gì trong bụng cả mà ông lại đi chơi, đồ mũi khoai tây”.

Đúng là Dorje có cái mũi to đùng nên nghe thế ông không nhịn được giận dữ. Bước vào bếp, ông la lên: "Mũi khoai tây. Ta mong cái mũi ta to như cái bếp này để ngươi biết thế nào là một lỗ mũi to”. Vừa nói xong thì cái mũi của Dorje phồng lên to tướng, to mãi, to mãi và đè bẹp hai vợ chồng khốn khổ vào vách tường.

‘Cứu tôi với, cứu tôi với!’Pemala la lên một cách tuyệt vọng và Dorje sực nhớ ra, nói “Ta mong rằng, ta không có mũi nữa”. Ngay tức khắc điều đó thành sự thực. Bấy giờ trên khuôn mặt của Dorje chỉ còn một lỗ đen khủng khiếp.Pemala vừa thở vừa nhìn sửng sốt khuôn mặt của chồng. Dorje sờ lên mũi và thò tuột tay vào trong đầu mình. Ông rên rỉ: “Ôi, lẽ ra đừng bao giờ gặp ngươi mà lại hay, bà tiên đáng nguyền rủa!”

Ba lời ước của ông đã thành sự thật. Vợ chồng ông sống bình thường như không hề gặp bà tiên, cũng không nhớ những gì của một ngày đáng nhớ đó.

21. Làm sao cho phải

Tu sĩ Ấn Độ Srona là người rất chịu khó học tập thiền định. Ngày nào ông cũng nhập định, từ bỏ mọi tư tưởng và xúc cảm, tập nhận ‘cái không’. Tuy thế ông chẳng đạt được tiến bộ nào.Ông càng tìm cách thư giãn thì lại càng căng thẳng. Ông càng muốn không nghĩ ngợi gì thì ý tưởng lại càng hỗn loạn. Cứ thế kéo dài, ngày nọ ông nghe nhắc đến đức Phật Cồ-đàm, một vị đạo sư của trời và người, một vị đã đạt mức thiền định cao nhất đang ở gần đó. Ông liền lên đường đi gặp Phật Cồ-đàm xin giúp đỡ.

‘Chắc hẳn ông còn nhớ, lúc còn trẻ, ông là một nghệ sĩ chơi đàn Sitar, ông lên đàn như thế nào?” Phật hỏi ngay vì Ngài biết rõ quá khứ của người tới trước mặt Ngài.

“Ồ, tất nhiên rồi”, Srona bối rối trước cái nhìn của Phật. Phật mỉm cười nói tiếp: "Đàn muốn hay thì dây phải thật căng hay thật chùng?”

“Không quá căng mà cũng không quá chùng, bạch Thế tôn”, Srona trả lời.

“Sức căng cần thiết nằm đâu ở giữa hai thái cực. Thì cũng như thế, ngươi nên thực hành thiền định”, Phật nói tiếp, “Nằm chính giữa, một bên là sự chú tâm, bên kia là sự thư giãn, đó là bí quyết của trạng thái thiền định tỉnh giác, trong đó người vượt qua hoạt động của tư tưởng và rơi vào trạng thái của tâm thức uyên nguyên. Đừng quan tâm gì đến có kết quả hay không kết quả. Cứ tu tập, tu tập và tu tập rồi một ngày nào đó, ngươi sẽ tự tìm thấy cái ở giữa là chỗ nào cho ngươi”.

Lúc nữ thánh Tây Tạng Machig Labdron(14) nghe câu chuyện này bà đọc bài kệ:

“Hãy để mình rơi trong dạng tự nhiên

Của là-như-thế

Có ích gì khi thắt nút hư không?

Trước hết tập thư giãn với sự tỉnh giác,

Sau đó cũng bỏ luôn sự chú tâm

Và cuối cùng bạn không bám giữ bất cứ điều gì.

Hãy để mọi sự xảy ra 

Thế nào cũng được,

Và hãy yên nghỉ trong dạng

Mà bạn vốn xưa nay đã nằm trong nó.”

22. Về sự tái sinh

Khoảng một ngàn năm sau khi Phật Cồ-đàm từ trần thì giáo pháp đã có nhiều phát triển trong giới trí thức Ấn Độ. Một trong những luật sư xuất sắc thời đó là Chandra, người vừa có cái thư thả của bậc giác ngộ, lại có cái tài hùng biện và lý luận sắc sảo của một người trí thức. Vì thế ông cũng được nhiều người ủng hộ, và những kẻ khác ý kiến thì lại rất gờm.

Ngày nọ, một pháp sư Ấn Độ tổ chức cuộc tranh luận trong một ngôi đền với sự có mặt của Chandra. Lúc đó các cuộc tranh luận như thế rất hiện hành. Cuối cùng, các vị đứng đầu các giáo phái có mặt lần đó, có cả các vị theo chủ nghĩa vô thần và nhà vua đều thừa nhận Chandra là người thắng cuộc tranh luận. Sau đó vị pháp sư nọ cho rằng "việc Chandra thắng cuộc chưa chứng minh được giáo pháp đạo Phật là ưu việt. Nhiều nhất họ chỉ nói  rằng Chandra là người có tài hùng biện thôi”. Nghe nói thế thì mọi người đều đồng ý, kể cả Chandra. Vị pháp sư nọ quả quyết không hề có bằng cớ về sự tái sinh và như thế, nguyên lý “nghiệp lực, nhân quả” cũng không đứng vững, "nếu không chứng minh được có kiếp trước thì không thể thừa nhận có kiếp sau”. Vị pháp sư thách đấu Chandra: "Nếu bạn có bằng cớ chứng thực về sự tái sinh, tôi sẽ cùng toàn bộ đệ tử theo Phật giáo hết”.

Chandra nhắm mắt im lặng hồi lâu, làm như suy nghĩ điều gì . Sau đó ông cười: "Được, nếu nhà vua chịu làm chứng thì ngay hôm nay ta sẽ chết và sẽ chủ động tái sinh theo một cách để chứng minh được có sự luân hồi”.Vị pháp sư nọ ngạc nhiên và chấp nhận, tuy thế ông vẫn không tin rằng Chandra chịu hy sinh mạng sống quý giá này chỉ để chứng minh điều này. Chandra nhờ nhà vua và cận vệ cho mang vào một chiếc áo quan bằng đồng. Sau đó ông vẽ lên trán một dấu hiệu màu đỏ, ngậm một hòn ngọc trai trong miệng và nằm vào áo quan chờ chết. Chỉ vài phát sau ông đã từ bỏ thân thể và nhà vua cho niêm phong áo quan.Chandra là người đã từ bỏ ảo giác về sinh tử nên ông chủ động nhập mẫu thai ngay trong đêm đó của một phụ nữ ở gần đền. Sau đó Chandra được sinh ra, có dạng của một hài nhi bình thường. Chỉ một thời gian sau người ta đồn đại vợ của một người Bà-la-môn sinh một đứa con trai, trên trán có dấu đỏ, dấu hiệu của hiền nhân và miệng ngậm một hạt ngọc trai. Nhà vua cùng cận vệ liền đến ngay thăm đứa bé. Sau khi kiểm soát, nhà vua trở về mở áo quan ra thì viên ngọc trai trên miệng đã biến mất và dấu đỏ trên trán của Chandra cũng không còn. Đúng như lời hứa, pháp sư nọ cùng đệ tử theo Phật giáo và rất gần gũi với cậu bé trai ngày càng lớn. Cậu bé được cha mẹ đặt tên là Chandragomi.

Sau đó Chandragomi trở thành một luận sư, diễn giả danh tiếng thời đó. Trong viện đại học Na-lan-đà ông đại diện cho quan điểm riêng của mình về Phật giáo và tranh luận với Nguyệt Xứng (Chandrakirti) cũng là một luận sư xuất sắc. Sau bảy năm tranh luận không phân thắng bại, Chandragomi thú nhận rằng chính đức Quán Thế Âm bất tử đã bày vẽ cho ông trả lời các câu hỏi hóc búa của Chandrakirti. Nghe thế Chandrakirti cười lớn và thú nhận trước quần chúng rằng lý luận của ông lại được đức Văn-thù-sư-lợi chỉ bày cho.

23. Sự trói buộc dẫn đến ảo giác

Trong thế kỷ thứ mười, Naropa (17)là khoa trưởng tại đại học Na-lan-đà ở Bihar Ấn Độ. Một ngày nọ, Naropa nhận ra rằng phải vượt qua giới hạn của tư tưởng, nếu thật sự muốn thực hiện lời dạy của giáo pháp. Dù kiến thức của Naropa rất được khâm phục tại Bihar, nhưng ông đã từ bỏ ảo giác của kiến thức đơn thuần, Naropa lên đường đi kiếm một vị đạo sư.Tại Bengal ông gặp Tilopa (18) đang ngồi trên bờ một dòng sông. Tilopa là một tu sĩ sống hoang dã, ăn thức ăn dư thừa và các thứ cá sống mà ông có tài bắt tay không. Naropa nằm xá dài để biểu lộ lòng hâm mộ đối với Tilopa. Sau đó ông từ từ đến gần, xin Tilopa vài lời khai thị.

“Ngươi kiếm cái gì?”, Tilopa hỏi, đưa cặp mắt đầy gân máu nhìn chằm chằm.

“Tôi tìm kiếm sự tự tại và giác ngộ hoàn toàn”, nhà hiền triết đáp.

“Cái gì trói buộc ngươi, ngươi muốn thoát khỏi cái gì?”, Tilopa lầm bầm hỏi.

“Muốn thoát tất cả, bạch ngài”.

“Cái trói buộc ngươi không phải là cảnh vật ngoại giới, Naropa. Chính sự bám víu của ngươi buộc chặt ngươi. Hãy bỏ tất cả và trở thành tự do”.

Nghe xong, Naropa bỗng thức tỉnh và đại ngộ.Vui mừng trước kết quả lời mình, Tilopa đọc bài kệ:

Chỗ nào có trói buộc níu kéo
Chỗ đó còn khổ đau.
Chỗ nào còn yêu ghét,
Chỗ đó còn giới hạn.
Chỗ nào còn dự định và tư tưởng,
Chỗ đó tính nhị nguyên lên ngôi,
Vì mọi phân biệt chỉ sinh vô minh
Tất cả tư tưởng, kế hoạch và tìm cầu hiểu biết,
Đều chỉ là những trò chơi giả tạo.
Mọi tham cầu hay từ khước,
Chỉ làm ngươi trở thành nô lệ của chính ngươi.
Cái sáng rực vĩnh viễn không bị ô nhiễm,
Chính là tâm thức uyên nguyên,
Tâm thức đó sinh ra tư tưởng,
Rồi thu nhận nó vào lại, xem như không có gì xảy ra cả.
Vì vậy, tốt nhất hãy yên nghỉ trên điều không hề biến hoại.
Nơi bất sinh bất diệt và hoàn toàn diệu dụng”.

Naropa còn phải trải qua mười hai lần thử thách và thuần thục một số phép tu rồi một buổi sáng nọ, Tilopa thình lình nhảy lén từ sau lưng lại, lấy giày đánh vào mặt Naropa. Cơ sửng sốt bất ngờ này đánh thức Naropa vốn đang mệt mỏi, bỗng nhiên hốt ngộ chân như tuyệt đối và tiếp nhận phép Đại Ấn quyếtMahamudra (47), là phép ấn quyết đưa hành giả trở vế với tự tính. Với phép này, Naropa đã trở thành truyền nhân của Tilopa và về sau được may mắn có một truyền nhân xứng đáng là Marpa, nhà dịch thuật, rồi vị này lại truyền cho con người hoan lạc Milarepa.

Dòng truyền nhân liên tục từ đời này qua đời khác đến ngày nay vẫn còn. Dù chúng ta không biết đến họ, phải biết đó là một sự may mắn cho hậu thế.

24. Lòng từ bi hơn tất cả mọi thứ

Cách đây trên hai ngàn năm, trong thành phố Sravasti ở Ấn Độ có một gia đình Bà-la-môn sinh được hai người con trai. Người con cả có trí thông minh hiếu học, còn đứa em tên là Chunda thì rất kém, không biết đọc, biết viết, tất nhiên không thể làm tròn trách nhiệm người con thuộc một gia đình tu sĩ.

Sau khi người cha mất, hai người con trai gặp một đệ tử của Phật Cồ-đàm và không bao lâu sau người con lớn trở thành thành tu sĩ được theo chân đức Phật và được gia nhập giáo hội. Trong lúc đó Chunda cũng lui tới, nhưng chỉ biết giành ăn với chó mèo mà thôi.Người anh lớn hỏi ý kiến A-nan, người hầu cận thân tín của Phật, rằng liệu một kẻ có trí khôn tệ hại như Chunda được phép gia nhập tăng già chăng. A-nan nói “Đem em ngươi lại cho đạo sư và trực tiếp hỏi ý kiến của Ngài”.

Lúc đầu Chunda không dám lại gặp Phật vì tự thấy không xứng đáng và quá ngu dốt, nhưng nhờ ông anh chỉ rằng giáo pháp này lấy lòng từ bi làm chính, nên cuối cùng Chunda mới chịu. Chunda đến gặp Phật một cách sợ sệt, theo giờ hẹn sẵn, lúc Phật đang tiếp chuyện trong một vườn cam. Chỉ nhìn qua, Phật Cồ-đàm đã thầy ngay tính khiêm tốn và lòng nhân hậu của con người trẻ tuổi này và cho phép A-nan thu nhận làm môn đồ.

 A-nan khai thị Chunda bằng bài kệ:

“Xa lánh mọi tư tưởng xấu, cái có thể mang lại hành động xấu.
Tha thiết quên mình và sẵn lòng phụng sự,
Tránh không bám giữ nơi cái Ngã.
Thanh tịnh, tỉnh giác và trong sạch, đúng như tự nhiên,
Thì không có khổ não nào có thể xâm lấn.
Đó là đạo lý của người giác ngộ.”

Ba tháng trôi qua, anh chàng Chunda tội nghiệp vẫn không thuộc nổi một câu kinh mà bất cứ kẻ chăn trừu nào cũng thuộc được. Trong lúc đó thì các vị Tăng sĩ trẻ tuổi đã thuộc nằm lòng từng chồng Kinh sách.Chunda thất vọng hỏi ý kiến A-nan. A-nan vừa mới giải thích xong thì đã khám phá ra Chunda không thể lĩnh hội gì cả, không có câu nói nào nằm lại trong óc chàng. A-nan tự nhủ: “Được cái gì? Người này gia nhập giáo hội để làm gì khi không thể nhớ điều nào trong đầu?” A-nan chỉ ban phước cho Chunda và cho chàng nghỉ việc. Chàng thất vọng, ra ngồi khóc vườn cam và khóc, khóc mãi cho đến khi Phật đi qua.Phật biết ngay những gì vừa xảy ra và khuyến khích Chunda kể lại câu chuyện. Chàng thút thít: "Không hiểu điều gì đã xảy ra cho con? Con muốn trở thành đệ tử của Thế tôn và được học pháp của Ngài, thế mà không nhớ được điều đơn giản nhất. Nghiệp nào làm con không thể hiểu biết được?”

Phật Cồ-đàm giải thích, trong kiếp cuối cùng chàng là một Bà-la-môn thông thái và là người tự cho mình tài giỏi hơn thiên hạ, chê trách không hết lời những quan điểm của người khác. Quá chủ quan, chàng tự cho mình là đạo sư và truyền bá các quan điểm sai lầm làm nhiều kẻ tầm đạo phải lạc lối. Vì sử dụng sai lạc sức mạnh của tư tưởng, Chunda phải chịu học hỏi “mặt kia của đồng tiền” trong kiếp này và trở thành kẻ ngu dốt để nhiều người chê bai.

Chunda đáp: "Từ hồi nhỏ thầy giáo đã chê con là người khó lĩnh hội. Làm sao thoát khỏi ách nạn này?.

Phật trả lời bằng câu kệ:

"Được bậc hiền giả hướng dẫn,
tốt hơn là được kẻ khờ ca tụng.
Ai biết rằng mình còn vô minh dại dột,
kẻ ấy mới là một hiền giả đích thực.
Ai tưởng mình là một hiền giả, dù không nói ra,
thì đích thực là một kẻ dại khờ”.

Sau đó, Chunda được Phật Cồ-đàm đích thân chỉ dạy. Nhằm làm sáng tỏ đầu óc của Chunda, Phật bảo chàng ngồi mỗi ngày đều quét đền và quét các đường đi quanh đền .Trong công việc đó, chàng chỉ nên nhớ đến hai câu duy nhất "Chùi sạch bụi, chùi sạch dơ bẩn”. Ngoài ra Chunda phải chùi sạch tất cả giày dép của các vị Tăng sĩ khác.Chunda vội bắt đầu công việc. Vừa mới cầm chổi quét, chàng quên ngay hai câu nọ. May thay chàng gặp A-nan đang ngồi giữa sân đền và nhờ nhắc lại hai câu đó. Sau đó một thời gian lâu, Chunda mới thuộc được hai câu này. Vài tháng sau thì chàng thuộc lòng và lúc nào cũng lẩm bẩm câu này, tay cứ quét, quét và quét và chùi giày từ đôi này qua đôi khác.Phật để tâm quan sát sự cố gắng của vị tiểu tăng này và có cách làm cho lúc nào đền cũng đầy bụi và giày dép lúc nào cũng lấm bùn để Chunda có việc làm liên tục từ sáng đến tối. Với sự cẩn trọng và tha thiết, Chunda từ từ đi vào chiều sâu của câu nói "Thế tôn nói bụi là muốn nói bụi ở bên ngoài hay bên trong? Mà bụi ở bên trong là gì?” Cứ thế mà chàng trở thành người học trò chuyên sâu nhất, song song đó chàng lại đi phụng sự cho các bạn đồng học.

Ngày nọ, Chunda tung chổi quét đền, và tâm thức đại định của chàng đã đạt đến mức rất sâu thì một câu kệ của Phật bỗng nhiên bừng sáng, trở thành một câu Kinh đầy ý pháp, một câu chàng không biết và cũng chưa bao giờ nghe:

“Bụi chính là sự ràng buộc, sự níu kéo, sự vướng mắc,
Không phải là bụi cõi trần;
Bậc hiền giả từ bỏ thứ bụi đó.
Dơ bẩn chính là sự giận dữ,
Không phải là sự ô uế thông thường;
Bậc hiền giả từ bỏ các lớp uế nhiễm nhiều tầng đó,
Và trở nên tự tại”.

Chunda nghe các lời kệ đó và trực nhận ra rằng cái Ta giả tạo do ba thứ tham đắm (Tham), giận dữ(Sân) và vô minh(Si) sinh ra. Như vậy người tỉnh dậy từ một cơn ác mộng, chàng thấy rằng lâu nay mình cứ tự động hòa mình với cái Ta, cái đó không gì khác hơn là một lớp dơ bẩn mà chàng vừa quét đi.“Rõ như ban ngày, hoàn toàn rõ ràng. Cảm tạ đức Thế tôn”. Chàng đứng đó, tay còn cầm chổi, nhưng đã đi xuyên suốt hết các tầng bụi bặm của sự ảo giác!Sau lần giác ngộ này, Chunda còn tu học thiền định hàng năm trời và sau đó Phật trao nhiệm vụ cho Chunda đi từ làng này qua làng nọ để đánh thức người tầm đạo. Kẻ “Chunda bất trị” nay đã trở thành “A-la-hán Chundaka, người quét đường” đi vào lịch sử Phật giáo và chứng minh rằng, có hàng ngàn con người với đầu óc giản đơn, thậm chí lòng đầy nghi ngờ và hoàn toàn không được chuẩn bị, thế mà vẫn có thể được đưa vào các cấp bậc giác ngộ chỉ với bằng những câu nói giản dị.

Trong các đệ tử, Phật Cồ-đàm xem kẻ quét đường Chundaka là người khôn khéo nhất khi chuyển hóa tâm thức. Ngày nay người ta vẫn nói, những ai muốn phát triển tâm thức nên thành tâm cầu đến trợ lực của Chundaka, nhất là khi nghe các vị đạo sư giảng giải làm họ không hiểu cũng chẳng nhớ. Chundaka là một thí dụ lịch sử sinh động nhằm minh chứng rằng, lòng nhân hậu và sự tha thiết thực hành các phép tu có khi quan trọng hơn xa một đầu óc trí thức sắc sảo.

25. Tự tính rất gần

Patrul Rinpoche, một kẻ giác ngộ phiêu bồng, không đêm nào khi trời chập tối mà không nằm ngửa, ngắm nhìn bầu trời cao rộng. Ở đâu cũng thế, mỗi lần như vậy là mỗi lần ngài hòa lẫn tâm thức riêng tư của mình cùng với vũ trụ, đó là sự hòa lẫn trong thiền định, trước và sau ngài có nhiều người đã làm như thế.

Một đêm nọ Patrul nằm trên một cánh đồng, nhìn ngắm bầu trời, gần đó có vài đệ tử. Bỗng nhiên ngài gọi vị đệ tử xuất sắc nhất là Nyoshul Lungtok lại và  nói: "Ngươi có thấy Tự tính chăng, Nyoshul?”

“Thưa không”, Nyoshul trả lời thành thực.

“Đừng lo”, Rinpoche nói, “thực tế không có gì bí ẩn cả. Nhưng đừng nghĩ ngợi gì về nó, cứ giữ tâm rộng mở”. Hai thầy trò nằm bên cạnh một lúc lâu và cùng nhìn bầu trời. Mặt trời lặn. Xa xa có tiếng chó sủa.“Ngươi có nghe chăng tiếng chó sủa?”, Rinpoche hỏi.

“Thưa có”, Nyoshul trả lời.

“Đó, nó đó”, giọng nói vị đạo sư trầm tư lại vì xúc động.Ông hỏi tiếp, giọng rất nhỏ: “Ngươi có thấy chăng các vì sao trên bầu trời?”

‘Thưa có, con thấy chúng’.

Patrul Rinpoche lại kêu lên: “Đó, nó đó! Chính nó!Tất cả, hết thảy đều là tâm thức tỉnh giác, đều là Phật tính ròng, nó chính là thứ nằm ngay trong ngươi. Đừng tìm kiếm nữa, khắp nơi chính là nó”.Ngay lúc đó, trong người học trò loé lên một tuệ giác, thứ tuệ giác nằm ngoài sự phân biệt. Trong khoảnh khắc đó, Nyoshul không thấy sự khác biệt gì giữa tâm thức của chính mình và cái tự tính của vạn vật. Trong phút giây đó, không hề còn gì mà ông phải chứng đạt, vì ông đã biết chính mình là gốc mọi thứ xưa nay, sinh ra tất cả, nhận thức tất cả, rồi lại chứng đạt tất cả.Nyoshul khóc. Chỉ mới đây ông còn đang lo tối nay mình lại phải mơ thấy giấc mộng ấy. Đó là giấc mộng mà Patrul Rinpoche hiện ra, đẩy trước mặt ông một cuộn len màu đen khổng lồ và trong cuộn len đó một tượng Phật bằng vàng, từ đó phát ra vô số sợi len. Bấy giờ Nyoshul chợt hiểu rằng bản thân giấc mơ đó cũng như mọi tư tưởng hay tình cảm do ông hay bất cứ ai cảm nhận được đều xuất phát từ Phật tính nằm trong trung tâm của vạn sự.Con đường dẫn đến tuệ giác này dài thật, nhưng bây giờ ông đã tự mình ngộ ra về một câu kệ đầy minh triết của Mật tông:

“Trên con đường đạo nhiều giáo pháp,

Bạn sẽ hiểu rằng.

Tất cả loài hữu tình,

Đều có khả năng, một ngày kia,

Sẽ đạt giác ngộ.

Trên con đường Mật tông,

Bạn sẽ thấy rằng, tâm thức uyên nguyên,

Từ xưa đến nay đang soi sáng tâm bạn”.

Nhiều năm sau, Nyoshul Lungtok còn kể câu chuyện về lần giác ngộ này của chính mình cho học trò nghe và chấm dứt câu chuyện bằng bài kệ của đạo sư Longchenpa:

“Vạn sự, từ xưa đến nay:

Tính của nó là thanh tịnh – và chính là Phật tính.

Ai biết điều này, đó là người đã thức tỉnh.

Ai để sáu thức yên nghỉ trong tự tính đó,

Người đó sẽ thấy chúng

Là một sự viên mãn hoàn toàn.

Đừng tin nghe đầu óc đang xao xuyến,

Hãy yên lặng và hãy để mọi sự như là…

Như là xưa nay vẫn cứ”.

26. Tỉnh giấc khó khăn

Vào thế kỷ mười chín tại miền Đông Tây Tạng có một vị Lạt-ma cao cấp tên là Jamyang Khyentse Rinpoche. Nhiều đệ tử của ngài là các vị tái sinh của các dòng Lạt-ma và thường rất xuất sắc trong học tập và lĩnh hội. Trong số đó có Neten Choling, một cậu bé mà rõ ràng là kiến thưc và tài năng đã được hình thành từ những đời sống trước. Từ nhỏ, Neten Choling đã thông minh và chỉ làm theo ý mình, đến nỗi cha mẹ phải đưa đến Jamyang Khyanste để cậu bé này được một đạo sư giác ngộ hướng dẫn học tập

Dưới sự hướng dẫn của Rinpoche quả nhiên Neten Choling sớm trở thành một thanh niên xuất sắc, nhưng cũng như các vị tái sinh khác, chàng không tránh khỏi lòng kiêu mạn.Ngày nọ, chàng Neten Choling chừng hai mươi tuổi quyết định lên đường đi kinh đô Lhasa để tham gia một cuộc tranh luận với các luận sư của bốn trường phái lớn của Phật giáo Tây Tạng. Lhasa là trung tâm văn hóa của cả nước, đi bốn ngày đường mới đến, nhưng Neten Choling cho rằng đáng công đi để cho các vị luận sư kinh đô biết đâu là chân lý.Chàng bắt  đầu chuẩn bị cuộc hành trình và báo cho thầy biết, xin phép lên đường và xin thầy ban phép lành. Jamyang Kheyentse trả lời: "Tốt lắm. Hãy đi Lhasa nhưng đợi vài ngày đã”.

Vài ngày sau có một buổi lễ điểm đạo, trong đó Langyang Khyentse sẽ khai thị cho một số vị đệ tử. Tất cả học trò, kể cả các vị Lạt-ma cao cấp đều tập họp đông đủ trong chính điện. Ai cũng hồi hộp mong được thầy nói điều gì đó cho mình. Ai cũng biết vị thầy của mình là người đắc đạo và thường bất ngờ dùng nhiều biện pháp để khai thị cho đệ tử hoặc để giúp tiến thêm nhiều bước tu học. Cũng vì thế mà các vị đạo sư vẫn được so sánh như người mài kim cương, dù có khác nhau về chủ trương, trường phái, nhưng các vị đó đều giống nhau là mỗi lần dạy học trò là như mới, phải có cách riêng để phá bỏ những điều vô bổ, những điều che mất ánh sáng rực rỡ tự nhiên.Chàng Neten Choling hôm đó chẳng may bị đau bụng dữ dội, bụng đầy hơi. Lúc ngài Khyentse Rinpoche đi dọc một hàng Lạt-ma và các vị tái sinh, ngang đến chỗ chàng thì đứng lại và đặt bình bát bằng vàng lên đầu chàng đồng thời ban phép lành. Vừa mới làm ngang đây, bỗng vị đạo sư đấm một đấm mạnh vào bụng chàng đang đầy hơi, ai thấy cũng kinh hoàng.Neten Choling phải phát ra một cú trung tiện thật lớn, không ai không nghe. Mặt chàng đỏ như gấc, lúc đó thì Khyentse Rinpoche chỉ thẳng vào mặt chàng, nói: "Chính nó đó!”.Đầu óc chàng hoàn toàn tê dại. Chàng rơi lại trong tính không của Chân Như và bỗng đạt được trạng thái tự nhiên uyên nguyên, trạng thái đó chính là Giác ngộ, khi con người trực nhận nó được một lúc.

Trong những năm sau đó, Choling Rinpoche vẫn còn kể câu chuyện giác ngộ của mình không chút hổ thẹn và cho trò biết cái nhận thức thâm sâu của nhận thức lần đó, cái thâm sâu đó đạt được là nhờ cú “sốc” mà ra và chàng không bao giờ rời xa chiều sâu thẳm đó nữa. Chàng khâm phục lòng sáng tạo thần thánh của Khyentse Rinpoche và nói thêm rằng sau đó không còn chút ham muốn đi tranh luận ở kinh đô nữa. Vì chàng chẳng cần minh chứng điều gì cả.

27. Patrul Rinpoche được cầu hôn

Trên miền cao nguyên Golok phía Đông Tây Tạng, Patrul Rinpoche gặp một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết với ba đứa con nhỏ, trên đường đi Dzatschuka. Người giác ngộ phiêu bồng này hỏi thăm người đàn bà và được biết ông chồng đã bị gấu ăn thịt, và cả gia đình bây giờ phải kéo về phố xa để xin ăn, nếu không cả nhà chỉ chờ chết đói. Patrul liền cõng một đứa bé trên vai, tay dắt đứa kia và nói: "Đường đi đến Dzatschuka còn xa, vì thế tôi phải đi cùng mà giúp đỡ cho bà”.

Người đàn bà mừng rỡ và cùng đi với Patrul suốt một vùng vắng người. Bà lo mang đứa bé mới  sinh và Patrul thì vai cõng đứa này, tay dắt đứa kia và cả nhà từ từ đi về phía Nam. Buổi tối Patrul bọc hai đứa nhỏ trong áo ấm của mình để chúng khỏi chết cóng trong đêm lạnh. Sáng tối hai người lớn nấu trà quanh  đám củi  và chia nhau ăn phần dự trữ ít ỏi của Patrul. Giữa đường họ gặp các người chăn trừu hay kẻ hành hương và mọi người đều xem đây là một gia đình hết sức bình thường đi lễ thánh địa. Không ai nghĩ ngợi gì về con người và đứa trẻ trên vai là ai, người đàn bà nọ thì lại càng không biết. Khi cả nhóm đến một nơi khá đông người thì người đàn bà cùng Patrul Rinpoche bắt đầu ăn xin, để mua các thứ như bột, bơ sữa chua mà sống. Nhóm người nhỏ bé này xem ra ngày càng bớt buồn trên đường đi vì niềm an lạc xuất phát từ một tâm thức giác ngộ như Patrul có thể xoa dịu  những tâm hồn sôi sục. Khi họ vừa đến ngoại ô của Dzatschuka thì gia đình ăn xin này hầu như cất được một bài ca, người đàn bà kiếm nơi ăn xin còn Patrul đi đâu mất. Một lúc sau Patrul về lại, mang theo nhiều thực phẩm nhưng mặt mày xem ra có chút ưu tư. Bà quả phụ hỏi thăm lí do ưu tư thì Patrul nói: "Chẳng có gì quan trọng. Tôi định làm chút việc, nhưng ở đây, các chuyện nhảm nhí lại được lan truyền nhanh như chớp”.

“Nhưng một người ăn xin nghèo khổ như ông lại quan tâm gì đến chuyện đó”. Người đàn bà ngạc nhiên.

“Thì…đúng như vậy, ta hãy đi tiếp”.

Một lúc sau cả nhóm đến tu viện nằm về phía Bắc của Dzatschuka. Dưới chân ngọn đồi của tu viện, Patrul nói với người đàn bà: "Tôi phải dừng ở đây vài bữa. Trong ba ngày nữa, bà sẽ gặp lại tôi và tất cả sẽ được chuẩn bị chu đáo”.

Người đàn bà quá đã có kế hoạch khác. Trong quãng đường đi, người bạn đồng hành đó đã gây niềm cảm mến. Bà thấy rằng đã vượt qua nỗi khổ đau mất chồng, một phần nhờ một cái gì rất êm dịu phát ra từ người đó. Bà vội nói: "Đừng làm thế, suốt một thời gian dài anh đã ở với chúng tôi, hãy ở lại. Nếu anh muốn, chúng ta sẽ thành vợ chồng, hay ít nhất cũng cùng nhau đi suốt cuộc đời này. Đừng bỏ rơi mẹ con tôi”. Nhưng vị đạo sư đã có một quyết định không thể dời đổi. "Tôi chỉ là một trong những người giúp đỡ bà. Hãy tin rằng mọi sự sẽ tốt lành. Ba ngày nữa bà sẽ trở lại và sẽ gặp tôi”. Nói xong, Patrul quay người leo lên đồi. Người đàn bà đành ở lại dưới thung lũng với các con và thực phẩm vừa kiếm được.

Ngày hôm sau người ta bắt đầu lan truyền tin “Đạo sư giác ngộ Patrul từ xa đến đây và giảng pháp cho chúng ta”. Mọi nguời đổ xô đến tu viện, dựng lều trước cửa và lo lắng tổ chức buổi lễ. Góa phụ kia nghe tin, có chút hy vọng "Sự có mặt của một đạo sư danh tiếng như thế quả thật là một điềm tốt. Ta sẽ kiếm ngài, dâng hiến tặng phẩm để cầu nguyện cho ông chồng xấu số”. Nàng gom góp mọi thực phẩm xin được, mang theo ba đứa con, tìm đường đến tu viện. Patrul Rinpoche là người không bao giờ nhận tặng phẩm. Nhưng lần này ngài ra lệnh cho các vị Lạt-ma hãy giữ mọi tặng phẩm lại "Ta đợi một người, người này sẽ được nhận các thứ”.

Các vị Lạt-ma ngạc nhiên, nhưng không có gì khác hơn là nghe lời Phật (Patrul) và dồn tất cả tặng phẩm trong một phòng riêng.Nàng góa phụ và các con vào trong chính điện, nơi Patrul giảng pháp, họ tìm được một chỗ đứng xa phía sau, không thấy mặt Patrul, chỉ nghe tiếng. Cuối buổi giảng, sau phần cầu nguyện kết thúc, mỗi người lần lượt đi ngang trước Patrul và được tận mắt nhìn vào mắt ngài. Đến lượt nàng góa phụ, bấy giờ nàng mới biết ai đã đi suốt một đoạn đường dài với mình. Nàng kêu lên một tiếng hốt hoảng, đưa tay bịt miệng. Patrul mỉm cười hiền từ và đưa tay đặt trên đầu nàng.

“Hãy tha lỗi cho con”, nàng nói, “con đã không nhận ra ngài suốt một thời gian. Trời đất! Ngài cõng con của con trên vai…và còn con thì lại đòi cưới ngài, một vị đạo sư tôn kính”.

Patrul cười và nói rõ lỗi tại ngài vì ngài chỉ muốn không ai biết mình để có thể tự do đi lại trong xứ này như một con chim trời. Sau đó ngài quay lại nói với các vị Lạt-ma: "Đây là người mà ta đợi. Cũng nhờ người này mà ta đến đây. Hãy tặng cho gia đình này tất cả tặng phẩm và hãy lo lắng cho họ. Hãy xem họ như chính ta”.

Các vị Lạt-ma hiểu rất rõ Patrul muốn nói điều gì: Ngài nói hãy xem họ như chính ta với nghĩa thật nhất.

28. Người đan giỏ

Tại Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau khi Phật nhập diệt, có một chàng thanh niên nguyện theo hạnh một vị tu sĩ Phật giáo và trở thành một tỳ-kheo. Chàng trở thành một người khất thực, nguyện diệt mọi dục vọng thế gian và luôn luôn chế ngự tâm, hướng tâm vào bên trong.Vị tỳ-kheo sống độc cư trong rừng, nhưng thỉnh thoảng cũng vào làng để nhận tặng phẩm của mọi người và cũng dùng năng lực của thiền định để hồi hướng công đức cho dân làng.

Lần nọ, có một nàng thôn nữ, chỉ nhìn thấy vị tỳ-kheo, thấy cách đi đứng và cặp mắt giác ngộ, nàng liền đem lòng yêu mến tức khắc, không sao cưỡng nổi.Nàng đánh bạo bày tỏ tâm tình với vị tỳ-kheo, nhưng vị này cũng nói rõ đã theo hạnh diệt dục, và sẽ không bao giờ lập gia đình. Thời gian trôi qua, nàng thôn nữ lẽ ra phải dần quên mối tình, nhưng thực tế lòng say mê ngày càng sôi sục hơn. Dần dần tình cảm này càng nồng cháy đến độ nàng không còn biết gì nữa. Bà con bạn bè tìm cách dỗ dành, các vị trưởng lão trong làng cũng như các vị tỳ-kheo đều cho thấy mối tình này là vô vọng. Tuy thế không ai có thể chữa trị nổi lòng đam mê của nàng.Ngày nọ, vị tỳ-kheo nghe tin nàng không còn thiết sống, muốn tự vẫn. Vị này liền vào làng và thấy nàng quả thật trong một tình cảnh bi đát, và không thể làm khác hơn là phải theo lời khẩn cầu của nàng và cha mẹ nàng, tức là cưới nàng làm vợ."Ta đã nguyện diệt mọi dục vọng thế gian. Đồng thời ta cũng đã nguyện theo hạnh Bồ-tát, tức là phải tìm cách giúp mọi loài hữu tình theo khả năng của mình. Trong tình cảnh này phải theo hạnh Bố-tát thôi”.

Không bao lâu sau, hai người cưới nhau. Trong buổi lễ kết hôn, chàng tự nhủ "Đã làm cái gì thì làm cho đến nơi đến chốn”. Tỳ-kheo đó trở thành một người chồng gương mẫu. Chàng đọc ngay trong mắt những ước muốn của vợ mình và cũng được trả lại bằng tình yêu đậm đà nhất. Hai vợ chồng tiếp nối công việc đan giỏ của cha ông và dạy dỗ các con trong nghề đan giỏ. Vị tỳ-kheo ngày xưa thực hành các động tác nghề nghiệp cũng với sự chăm chú của thiền định, tuy thế không hề tách biệt với người xung quanh.Hai vợ chồng ngày càng xây được sản nghiệp lớn lao. Tiếng đồn ngày càng xa, giỏ của gia đình này có chất lượng vượt xa và nhất là chúng mang lại nhiều may mắn cho người sử dụng.Vài chục năm, gia đình này trở nên giàu có và người đan giỏ nọ trở thành một người danh tiếng, nhiều người đến tìm ông xin ý kiến. Con cháu họ tiếp tục gia nghiệp và cái làng nhỏ bé nọ trở thành nổi tiếng với nghề làm giỏ.

Khi người đan giỏ nọ cao tuổi chết đi, người vợ chết theo không bao lâu sau đó. Cả hai được tái sinh trong cõi cực lạc phương Tây, một cõi tịnh độ của Phật A-di-đà.Phật A-di-đà, vị Vô Lượng Quang Phật, tiếp dẫn sự tái sinh và cho người đan giỏ biết rằng, ông đã làm đúng, khi từ bỏ cuộc đời tu sĩ để cứu mạng sống của một người khác. "Với lòng từ bi quên mình, ngươi đã thực hành đúng nghĩa nhất: hạnh diệt dục”, Phật nói như thế. « Vì thế, ngươi và những người liên hệ nghiệp lực chặt chẽ với ngươi sẽ được nhập Niết-bàn không bao lâu sau nữa”.

29. Tâm thức tự tại

Thời Phật còn tại thế, cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, có một tu sĩ Ấn Độ tên là Khenpo. Khenpo không được vui khi thấy rằng nhiều đệ tử của mình bỗng nhiên bỏ mình để trở thành đệ tử của Phật Cồ-đàm.

Tới lúc Khenpo nghe vợ một người đệ tử quan trọng nhất cũng muốn theo học giáo pháp mới của Cồ-đàm thì ông thấy đã tới lúc ngăn cản. Ông cho gọi người đệ tử đến và bảo: "Pelbay thân mến, ngươi đang có mối nguy hiểm lớn. Tên hoàng tử Tất-đạt-đa hồi trước ngày nay tự xưng là Phật Cồ-đàm đang làm ra vẻ là tay đạt đạo. Thực tế y chỉ là một tên phù thủy ích kỷ và ngày nay nếu y khuyến dụ được vợ ngươi thì, chắc là ngươi không yên được đâu.”Pellbay đâm lo, vội chạy về nói với vợ nhưng nàng nhất quyết không để mất lập trường: "Em sẽ mời Phật và Tăng-già đến nhà ta dùng bữa trưa, lúc đó anh sẽ được chứng kiến sự thành tâm và trí tuệ vĩ đại của Ngài”.

Pelbay kể lại cho thầy mình nghe, Khenpo liền khuyến cáo: "Ngươi sẽ thấy, nếu ngươi cho vợ ngươi theo tên đạo sư tân thời này, điều gì sẽ xảy ra. Chỉ toàn là chuyện khốn khổ! Tên Cồ-đàm này cho mọi người biết rằng y là một nhà tiên tri, đại từ, đại trí! Nhung ta có thể đối trị điều này rất dễ, Pelbay. Cứ để cho vợ ngươi mời tên Phật đó đến. Ta sẽ thử thách cái tiên tri đại trí của y trước mắt mọi người”.

Sau đó Pelbay nghe lời thầy cho đào một cái hố trước cửa nhà để cho tên phù thủy mặc áo vàng này rơi vào đó làm trò cười cho thiên hạ. Mặt khác Peibay cho tẩm thuốc độc vào thức ăn và nhốt vợ trong nhà kho để nàng khỏi báo trước cho đức Phật.Phật nhận lời đến dùng bữa trưa và vợ Pelbay quả nhiên bị nhốt. Trước khi lên đường đến nhà Pelbay, Phật họp các tỳ-kheo lại và dặn đừng ai vào cửa trước ngài cả. Ngoài ra Ngài không nói gì thêm.Pelbay đứng đợi sẵn sau cánh cửa lúc đoàn tùy tùng của Phật vừa đến. Phật đi trước và bước lên tấm thảm đó không hề lún xuống mà lại biến thành một hồ sen và Phật đi trên đó. Sau cánh cửa, không gian như biến thành vô tận và bao bọc thân Phật đầy ánh sáng cùng đoàn tùy tùng.Thấy thế Pelbay quì xuống và kêu lớn: "Hãy tha thứ, bạch Thế Tôn. Con đã gây tội lỗi không thể tha được”. Phật nghe lời sám hối của Pelbay và trả lời bằng bài kệ:

“Tâm giác ngộ đã vượt lên

Mọi nhị nguyên.

Làm sao mà Thiện hay Ác còn đụng đến nó được nữa.

Tâm tỉnh giác xa lìa moị dục ái

của ba độc (tham, sân, si)

Làm sao cái khổ còn đụng đến nó được nữa?”

Phật Cồ-đàm cho phép mọi tu sĩ được thọ thực. Sau đó, ngài nhờ Pelbay thả vợ ra và đưa đến bàn ăn. Pelbay làm theo lời Phật rồi quì xuống đấm ngực: "Bạch Thế tôn, xin Ngài cùng đoàn đừng ăn xin đợi chúng con nấu món khác. Con biết Ngài là một đấng tiên tri và đã nhìn suốt con người của con. Lòng từ bi của Ngài là vô hạn, nhưng con sẽ không bao giờ được yên nếu Ngài hay bất cứ ai trong đoàn bị ngộ độc”.

Đức Thế Tôn lại trả lời bằngmột bài kệ:

“Tâm giác ngộ là xa lìa

Mọi điều Phải hay Trái.

Làm sao mà nó còn quan tâm đến Đúng hay Sai.

Tâm tỉnh giác vượt lên mọi tác hại của ba độc

Làm sao chất độc thường tình còn đụng đến nó ?”

Thế rồi đức Phật cùng đoàn bắt đầu thọ thực, Pelbay sợ hãi kêu gào. Sau khi cám ơn lòng hiếu khách của gia chủ, Phật rời nhà và cũng là người bước lên tấm thảm trước và tấm thảm lại biến thành hồ sen. Còn Khenpo tuyệt vọng ngồi suốt buổi phía sau, ông ta đã nhìn thấy tất cả, trốn ra cửa nhà bằng cửa sau và không bao giờ xuất hiện nữa.

30. Tên trộm qui y dưới chân cầu

Ngày xưa có một vị Lạt-ma sống bên dòng sông Dzachu tại miền Đông Tây Tạng và suốt đời thực hành thiền định. Phật tử dâng cúng tặng phẩm mỗi ngày nhưng vị Lạt-ma chỉ lấy thực phẩm, còn các thứ khác nằm ngổn ngang không để ý.Có một tên trộm thấy vậy liền nghĩ: 'Vị Lạt-ma này làm công việc của ta khoẻ thật!'. Y mò tới và nhặt vài tặng vật nghệ thuật mà các tín đồ đặt lên bàn thờ của vị Lạt-ma. Lúc đó vị Lạt-ma đang thiền định, mặt quay về hướng sông. Tuy thế ngài vẫn có cảm giác về một năng lực đen tối sau lưng mình và một tâm hồn đang gây ác nghiệp.Ngài đứng dậy, chụp cổ tên trộm. Vị Lạt-ma nhìn sơ qua tên trộm biết ngay người này tuy đang bị những năng lực đen tối chi phối nhưng vẫn chưa bị cái ác chiếm đoạt hoàn toàn.Nhanh như chớp, vị Lạt-ma chụp một cuốn kinh, đập lên đầu tên trộm và đọc nhiều lần: "Con xin quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y Tăng, con xin quy y Tam bảo”. Sau đó ngài thả tên trộm ra đi, không nói lời gì cả.

Sau đó tên trộm nằm nhoài dưới chân cầu, còn vị Lạt-ma thì tập trung tâm thức của ngài lên hình ảnh, tâm tên trộm sẽ sáng lên một mức và bớt bị những ác nghiệp chi phối.Nửa đêm thì tên trộm tỉnh dậy từ cơn mê ngủ và thấy xung quanh ma quỉ đen tối đứng bao vây mình. Sợ hãi, tên trộm định la lên nhưng y chột nhớ những câu mà vị Lạt-ma mới đọc cách đây có mấy tiếng. Y thầm đọc quy y Tam Bảo, quy y Pháp, Phật, Tăng. Ngay trong lúc đọc, y đã thấy các linh hồn ma quỉ tự ý rút lui, vì chúng không thấy tên trộm còn là bạn bè với chúng nữa.Trong những ngày và tuần lễ sau đó, lúc nào tên trộm cũng đọc quy y và tới một lúc nọ, y thu hết can đảm tìm gặp lại vị Lạt-ma và xin ngài cho y làm đệ tử.

Như tất cả mọi người đều biết, quy y Tam bảo là bước đầu của cuộc hành trình trên con đường đạo, trên đó các cánh cửa của tri kiến thánh đạo sẽ mở được ra. Ai kiên trì luyện quy y một cách thành tâm, người đó sẽ thoát khỏi sự chi phối của những năng lực xấu ác và được thanh lọc. Đó là trường hợp của tên trộm quy y dưới chân cầu và sau bản thân vị đó cũng có nhiều học trò. Nhờ niệm quy y mà các đệ tử đó đều được giải thoát khỏi ảo giác của mình.

31. Nghiệp cũ

Ngày xưa tại Kashmir có một tu sĩ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày, Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy ra. Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sĩ Phật giáo là bất bạo động, ăn chay trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sang ngày hôm sau.

Một ngày nọ Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng để làm màu nhuộm áo. Vị tu sĩ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc. Một nông dân nhìn nồi nước và la lên: "Bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt con bò làm thịt và đang nấu nồi súp”. Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng, chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng. Vị liên trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi. Người tu sĩ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh oan, rõ là một sự thú nhận.

Vài ngày sau, một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả. Mirathi cứ chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau, một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra. Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu chuyện, vì ông là người tin nơi luật nhân quả mà người Ấn Độ gọi là “Karma”. Ông tưởng tượng một vị tu sĩ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sĩ và đưa về kinh đô. Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi: "Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin ngài tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt này?”

“Không”, Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, “Xin ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn khỏi nghiệp đuợc cả. Và như ngài biết, khổ chính là kết quả tất nhiên của những hành động sai trái”.Nhà vua ngạc nhiên hỏi: “Tại sao một tu sĩ cao thượng như ngài mà còn chịu khổ?” Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa, ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệt có một lần ông ăn trộm một con bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.

“Vô số đời sống đã trôi qua từ đó”, Mirathi nói, “vô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này. Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai”.

Nói xong, Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.

32. Hai tên quỉ

Ngày xưa có hai người Bà-la-môn, bên ngoài trông rất thánh thiện nhưng thực tế lại bị tham dục và giận giữ chi phối rất nhiều. Một người tên là Pana, người kia là Nava, cả hai sống tại Ma-kiệt-đà(Magadha) Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau Phật Cồ-đàm.

Hai người này ngày càng lộng hành, càng có thế lực và ham thích quyền lực, cả xứ Ma-kiệt-đà ai cũng sợ hãi. Họ là tác giả của nhiều vụ cướp của, giết người và tra tấn, chiếm đoạt của cải. Mãi đến khi quân lính của nhà vua bắt được và tống giam hai tên này vào ngục thì dân chúng trong vùng mới thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu xây dựng lại cuộc sống.Dần dần ngưòi ta quên đi Nava và Pana vì cũng không ai nghĩ trong ngục thì hai người này làm được gì nữa. Thực tế lại là trong sự cô quạnh ngực tù, hai người này lại càng rơi vào thế lực đen tối của cái ác và cả hai đều nguyền rằng sau khi chết sẽ được tái sinh làm quỉ vương Yakscha. Các của cải trộm cướp được, họ nhờ bộ hạ đem tặng các tu sĩ cao cấp, chỉ với yêu cầu tu sĩ đó cầu nguyện cho người tặng. “Mong thay các vị biếu quà này được toại nguyện, dù tôi không biết đến các vị đó”.

Cầu sao thì được nấy. Pana và Nava chết trong ngục và thần thức của họ đi vào thế giới ma quỉ. Bây giờ, đối với nạn nhân của họ, hai tên này trở thành vô hình vô ảnh, tác hại của nó mới là ghê gớm. Không còn bị thế giới vật chất chi phối, hai quỉ vương này đi vào từng nhà tại Ma-kiệt-đà, ra lệnh vào những đầu óc chịu nghe và bắt đầu kích thích dục vọng của dân chúng. Không bao lâu sau, Pana và Nava gây ra một bệnh dịch tại đó và tìm mọi cách buộc những người có đức hạnh phải ra đi.Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến lúc một kẻ biết nhìn ra sự việc và nguyên nhân mọi suy đồi trong nước và báo cho vị đạo sư giác ngộ Savanasika. Savanasika là tổ thứ ba của Phật giáo, lúc đó đã già, nhưng ngài liền lên đường đến Ma-kiệt-đà, ngồi thiền quán trong thế liên hoa ở một hang núi mà hai vị quỉ vương này hay lui tới và vận dụng thần thông gọi họ đến.Hai vị này không để đợi lâu. Từ xa họ đã cảm giác hào quang của vị đạo sư, họ không thích thú lắm nhưng không có cách nào khác hơn là phải đến. Càng tới gần họ càng cảm thấy căm ghét và muốn ra sức đấu với thứ ánh sáng này, ánh sáng xuất phát từ Savanasika. Với một đối thủ này, họ có cảm giác chưa hề gặp.

Trước hang núi, hai vị quỉ dừng lại, vận dụng năng lực của căm ghét lên hang và tác động cho trần hang đổ xuống đầu vị đạo sư.Savanasika vẫn an nhiên bất hoại trước hang động đổ vỡ và toát ra sự từ ái của chính tri kiến vô thượng. Hai vị quỉ đâm ra lo sợ, vận dụng sức công phá thêm một lần nữa rồi lần nữa nhung vị đạo sư vẫn ngồi yên giữa đá sỏi bay mịt mù.Hai vị quỉ đốt lửa, ném thẳng vào vị đạo sư một thân cây cháy hừng. Thay vì rút lui, Savanasika cho khắp nơi đều biến thành biển lửa và gọi lớn: "Tự tính vốn không lay chuyển: không bị lực nào phá huỷ, không lửa nào đốt cháy, không vật nào ngăn ngại”.Nhưng đó là tự tính, còn Pana và Nava cảm giác đau đớn vì lửa, lửa đang đốt cháy thân họ, nóng gấp trăm lần lúc trước, mỗi giây dài như một kiếp. Họ bò lết van xin Savanasika, thú nhận tội lỗi của mình và xin ngài chỉ cho cách thoát khỏi vòng vây hãm của bạo lực và thù hằn.Trong lúc hai vị quỉ vương phải chịu cái đau đớn mà trước đó họ thản nhiên gây cho người khác thì biển lửa đã tắt trong chân như. Chân Như đó không có gì cả mà lại chứa đựng tất cả, từ đó Savanasika đã dùng năng lực của tư tưởng để lấy ra biển lửa. Sau đó ngài bắt đầu giảng cho hai vị quỉ vương nguyên lý cơ bản của Pháp và từ phút đó hai vị này theo vị đạo sư của mình như hai cái bóng biết sám hối.

Như tất cả mọi hiện tượng thế gian, dạng quỉ sứ của hai vị này một ngày nào cũng sẽ chết đi và trong phút giây ấy, hai vị đi vào trong một tầng thiền an lạc, trong đó hai vị cũng không thể lưu trú mãi. Tuy thế, vì hai vị cũng đã trả ác nghiệp một phần, và vì thành tâm hướng theo ánh sáng nên cuối cùng hai vị cũng được sinh vào một cõi sáng sủa.

33. Giấc mơ của một vương tử

Tại miền Bắc Ấn Độ cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm có một vương quốc, do vua Udayi và hoàng hậu Vajra Devi trị vì. Vua và hoàng hậu có một hoàng tử tên là Vajriputra (21), là người sẽ kế vị.Vajriputra là một thiếu niên đẹp trai, thông thái và là con cưng của hoàng tộc. Từ rất sớm, chàng tỏ ra quan tâm tu học tâm linh hơn là việc cai quản triều đình, là việc mà người ta định trao cho chàng. Mới chín tuổi, chàng đã đặt những câu hỏi chỉ làm cho người khác nhăn trán và gây phiền muộn vì không có vị tri thức nào trong triều có thể trả lời trôi chảy.

Rồi như số phận đưa đẩy, ngày nọ vị A-la-hán Katyayana được mời vào hoàng cung giảng pháp. Cậu thiếu niên Vajriputra chỉ vừa nghe giọng nói đã xin vị A-la-hán nọ làm thầy của mình.Vua và hoàng hậu đồng ý cho Vajriputra đến Katyayana tu học. Sau thời gian thử thách, chàng được nhận làm Tăng và thay vì mặc áo lụa, chàng mặc y vàng của một người tỳ-kheo. Sau đó thầy và người học trò cạo đầu đi tu hành đến một vương quốc láng giềng. Người ta cho rằng, khi từ bỏ gia đình và sứ xở lên đường, con người đã đi dược một nửa của đọan đường thánh đạo.

Một buổi sáng nọ Vajriputra đi một vòng khất thực. Chàng đi qua các nẻo đường nhỏ của kinh đô nước láng giềng này và gặp một phụ nữ còn trẻ, người này ngoắc chàng đi vào một cái sân tràn ngập những hoa. Chàng ngần ngừ đi theo. Sau vài bước, chàng đã ở trong sân cung điện của nhà vua Prakanda, nhưng vì mới đến đây nên chàng không hề biết. Trên các phiến đá quý, giữa các lùm cây, hoa và tiếng chim hót, các nàng cung nữ đang giỡn đùa dưới ánh mặt trời ban mai. Thấy một Tăng sĩ trẻ tuổi khả ái,các nàng bật tiếng cười như ngọc và kêu gọi chàng cùng vào ngồi chơi.Sau một thời gian khất thực, chàng Tăng sĩ đói bụng được phục vụ đủ các món thượng vị, được chiều chuộng săn đón và chàng ở lại lâu hơn mức cần thiết. Đối với các nàng, Vajriputra thấy cũng nên đáp lễ bằng cách giảng vài câu kệ về ý nghĩa cuộc đời, khuyên nên từ bỏ tính chất phù phiếm của cuộc sống vô thường. Ngay cả với các câu hỏi đùa giỡn chàng cũng trả lời hết sức nghiêm túc.Trong lúc đó thì hầu cận nhà vua đã báo cáo các chuyện xảy ra trong vườn. Nhà vua không tin nhưng thân hành đến xem sự thể. Vua núp dưới vòm cây nhìn vào trong, không có cung nữ nào để ý cả, nàng nào cũng đang say mê ngắm chàng Tăng sĩ và cái miệng nói của chàng. Nhà vua tức giận quay lại bảo hầu cận: "Đám cung nữ này thì ai chúng cũng mê mệt, còn như ta đây minh triết hàng trăm lần mà chúng không hay. Để rồi xem”. Rồi nhà vua cao giọng: "Tu sĩ mà quây quần với đàn bà con gái là hư hỏng rồi. Cho nó hai chục hèo may ra tỉnh ngộ”.

Lệnh của nhà vua lập tức được thi hành. Sau đó Vajriputra bị đuổi ra trước cổng thành, mặt mày nhăn nhó vì đau và tức. Chàng thề sẽ trả thù, sẽ về ngay quê hương đem quân đi phá ngay lâu đài của Prakandas thành bình địa.Sau đó chàng về gặp thầy và kể lại câu chuyện. “Con không thể tiếp tục làm Tăng sĩ”,chàng cương quyết.“Con xin thầy cho trả lại chiếc y vàng và cho phá mọi hạnh nguyện.”

Katyayana gật đầu đồng ý nhưng khuyên chàng nên nhẫn nhục, đừng thêm một điều bất hảo bằng một điều bất hảo khác."Hãy nhớ đến lời dạy của đức Phật Cồ-đàm”, vị A-la-hán đọc:

“Vui mừng hay đau khổ

mất mát hay thành công

tủi nhục hay vinh quang

hãy nhận tất cả với lòng bình thản,

không tham cầu cũng không ghét bỏ.

đó là con đường thoát

khỏi vương quốc của ảo giác”.

Chàng hoàng tử không muốn nghe những điều đó. “Không, con đã quyết”, chàng lầm bầm, “con hứa hẹn quá nhiều, nếu từ nay chỉ biết bất bạo động và lòng từ bi. Con phải bỏ lời nguyện này thôi, vì lũ côn đồ phải trả những cái giá kiêu mạn của chúng”.

Katyayana gật đầu đồng ý, nhưng nhắc chàng rằng trời đã tối. "Con cũng biết, ban đêm đi rừng thật bất trắc; đợi đến sáng mai hãy về, hãy nhận phước lành của ta rồi sau đó con muốn làm gì thì làm”.

Vajriputra nghe lời thầy, nán lại một đêm, mỗi lần nhìn chiếc y vàng dính máu, lòng chàng còn hậm hực.Trong lúc chàng tu sĩ trẻ tuổi ngủ say, vị A-la-hán từ bi dùng năng lực trí tuệ chuyển cho chàng một giấc mơ nhiều ý nghĩa. Trong giấc mơ, Vajriputra thấy mình về nhà và sau khi phụ hoàng mất, chàng được lên ngôi. Chàng động viên binh sĩ và ra lệnh truy nã kẻ thù, biến lâu đài của Prakandas thành bình địa.

Sự thể lại xảy ra khác hẳn: chàng thất trận bị cầm tù và bị xử trảm. Một đám đông hò reo chỉ chực chờ đầu chàng bị chém. Trong phút cuối cùng bỗng chàng thấy sư phụ hiền từ hiện ra, đầy tuyệt vọng chàng kêu cứu: "Bạch thầy Katyayana, tha tội cho con, hãy cứu con!”.Chàng sợ hãi tỉnh giấc, thấy thầy ngồi bên cạnh mình an ủi: "Đừng sợ bất cứ mọi hình ảnh xuất hiện trong đời, con ạ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Con còn nguyên vẹn cả…”

Bỗng, Vajriputra nhận ra rằng tất cả mọi hình ảnh vừa rồi lẫn cả những biến cố có thực ngày hôm qua đều như nhau, chỉ như một cơn ác mộng. Sự sân hận và lòng thù oán của chàng kéo nhau ra đi, với tri kiến mới lạ đó, chúng biến đi như các đám mây dưới ánh mặt trời. Chàng cúi đầu ba lần trước vị đại sư, chàng biết rằng cảm tạ bao nhiêu lần cũng không đủ vị thầy đã dùng linh ảnh ngăn mình đi qua một quãng đời khác, một quãng đời có lẽ sẽ rất khủng khiếp và sẽ đưa vô số con người vào khổ ải.Rồi Katyayana đưa học trò mình đi vào chiều sâu của giáo pháp vô ngã để nhận ra rằng mọi sự không có một bản thể gì riêng biệt đứng đằng sau. Sau đó Vajriputra giác ngộ và càng thâm hiểu những gì đêm hôm đó mình đã trải qua.

Về sau, Vajriputra trở thành một trong mười sáu A-la-hán, là những vị đã truyền chánh pháp của Phật Cồ-đàm, mà ngày nay chúng ta còn biết ơn. Người Tây Tạng cho rằng, những ai lòng còn sân hận, đầy thù oán và không biết tha thứ thì hãy nên cầu vị A-la-hán Vajriputra, vì vị vương tước một thời đầy kiêu mạn này biết cách xa lánh những tâm thức đó.

 34. Milarepa, người ham ngủ

Thỉnh thoảng Milarepa, người du ca đắc đạo cũng rời cảnh độc cư núi rừng để về làng mạc Tây Tạng. Có lần ngài ngủ trong một tu viện, và vì ngài trông như một kẻ tu khổ hạnh hoang dã, không ai biết đến nên các vị Lạt-ma cho ngài nằm trước cửa một phòng nhỏ của vị Tăng khác. Không ai để ý đến ngài cả.

Trong phòng vị Tăng sĩ nọ đang nằm, còn Milarepa ngồi trước cửa, nhắm mắt. Vị Tăng nọ thật ra là kế toán trưởng của tu viện, lo lắng cho thu nhập của tu viện, hôm nay không ngủ được. Ông đang lo ngày mai bán con bò bao nhiêu tiền để có lời. Trong đầu ông tính toàn chuyện tiền bạc chi phí, chi li từng bộ phận con bò.Sáng hôm sau thì xem ra ông đã tính xong, chỉ trừ chưa biết giá cái đuôi bò phải đòi bao nhiêu mới phải. Ông bực mình, lầm bầm cầu nguyện cho đúng phép, thắp cây đèn mỡ bò lên, đốt hương trên bàn thờ rồi bước chân ra ngoài, đạp nhằm lên người của Milarepa.Thấy áo quần của Milarepa, ông lắc đầu nhìn con người đang nằm sóng soài trên bậc cửa. “Mặt trời lên mỗi lúc một cao, còn ngươi mê ngủ đang nằm đây, không thiền định cũng chẳng cầu nguyện cho lợi ích tập thể, mà tập thể là người nuôi dưỡng ngươi”, ông càu nhàu phê bình, “Thế mà ngươi dám nói mình là tu sĩ ư! Cho và nhận của ngươi là cái gì?”

Milarepa đáp: "Thường thì ta không ngủ lâu như thế này. Nhưng đêm qua ta chẳng được yên giấc vì suốt đêm phải tính lời lỗ về con bò, con bò hôm nay phải bỏ mạng vì ta”.

Vị Tăng nọ kinh ngạc không nói được lời gì. Mặt đỏ hồng, ông nghiêng người trước Milarepa và cảm tạ. Ông đã nhận ra đây là một sứ giả của đức Phật, Ngài đã gửi người đó đến đây để cho ông một bài học quan trọng.

35. Hồ đầy châu báu

Taschi la một thanh niên thích nghe chuyện. Có lần chàng nghe chuyện gần túp lều nghèo khổ của mình có một cái hồ chứa đầy vàng bạc châu báu, chàng liền lên đường tìm kiếm cho biết.Hồ nằm trên núi giữa hai sườn đầy tuyết và rất khó đến. Ngoài ra người ta còn bảo rằng, có một vị nữ thần canh giữ vàng bạc này. Vị này tu không thù địch với người nhưng cũng không dễ cho ai lấy đi các thứ đó. Là người tò mò và gan dạ, chàng sắm một cái túi và lên đường đi kiếm hồ.Chàng leo lên tới hồ thì cũng vừa đuối sức và vui mừng thấy rằng, hồ này không có màu xanh thẫm như các hồ khác ở Tây Tạng mà lại có màu vàng rực.

Lòng đầy hy vọng, chàng leo tới bờ hồ thì vừa có một đám mây đen hiện ra trên mặt hồ thành hình một nữ thần đáng sợ và lơ lửng trước mặt Taschi.Taschi cũng dự đoán được, chàng thu hết can đảm gọi lớn: "Nữ thần, ta có thể lấy được bao nhiêu châu báu của người?” Nữ thần nghiêng người qua lại, phát ra muôn ánh sáng khác nhau trên mặt hồ. Sau đó vị ấy nói bài kệ khó hiểu: "Người xứng đáng thì nhận mà không hỏi. Kẻ không xứng đáng thì hỏi mà không nhận”.Taschi trả lời: "Ta không hiểu người nói, ta chỉ muốn lấy những gì ta thật cần thiết thôi”.

“Thế thì cứ lấy, cứ lấy đi rồi hãy thấy”. Sau đó vị nữ thần biến mất trong không gian.

Taschi thò hai tay vào nước lạnh như băng và không bao lâu đã kiếm được ba thỏi vàng. “Juhu”, chàng nhảy lên mừng rỡ. Chàng liền cho các thỏi vàng vào túi, đồng thời nghĩ ra một điều mới. “Lượm vàng ở hồ này thật là khoẻ. Ta khỏi cần phải mang mấy cục vàng này về mà phải về ngay báo cha ta biết, ông sẽ mang bao bố đến, thậm chí hai bao bố”. Chàng cất mấy thỏi vàng dưới một cục đá bên bờ hồ rồi lên đường về nhà.Chàng thuyết phục mãi người cha mới chịu tin, sợ còn khó hơn thuyết phục vị nữ thần. Nhưng Taschi nói mãi ông cũng nghe và hai cha con leo lên đỉnh núi để thăm lại hồ lần thứ hai.Tới bờ hồ, vị nữ thần lại hiện ra, lơ lửng trên đầu hai người. “Ngươi còn muốn gì nữa. Ba thỏi vàng không đủ cho ngươi ư”. Chàng ấp úng trả lời: "Nhưng, cha tôi muốn thật sự thực sự tận mắt xem thế nào”. Chàng nhìn quanh thì thấy viên đá và các thỏi vàng hồi trước đã biến mất, chàng hỏi rụt rè: "Liệu cha tôi xin được ít vàng của người chăng? Bọc vàng của tôi hồi trước để ở đây không còn, chắc hồ đã lấy lại. Xin người cho chúng tôi mỗi người được lấy một ít rồi từ nay không bao giờ phải xin điều gì nữa”.

Vị nữ thần nhấc tay gật đầu đồng ý và biến mất. Hai cha con hiểu ý nhau và bắt đầu mò vàng.Chưa đầy phút sau, mỗi người trong tay đã lượm được ba thỏi vàng sáng loáng. Họ nhìn nhau, mắt lấp lánh. Người này nói ra ý tưởng người kia: "Ta cần ít nhất một con trâu kéo và toàn thể gia đình để chở số lượng vàng này đi, dù chỉ một nửa. Cái ta đang có chỉ là đồ cỏn con, phải tính một số lượng khác mới đuợc”.

Hai người vứt ngay túi vào hồ và vội lên đường về nhà. Cả nhà được gọi, phân chia kế hoạch. Lúc đó trời đã tối chưa thể lên núi ngay được và bây giờ cũng là lúc cả nhà ăn mừng sắp được một gia sản kếch sù. Tất cả thực phẩm bia rượu để dành đều được đem ra ăn uống. Cả nhà say sưa bàn kế hoạch tương lai, người cha đem lưỡi cày gỗ ra đốt, vì ông không bao giờ muốn đi cày nữa.Ngày hôm sau thì ai cũng kêu than nhức đầu và một lúc sau, cả nhóm mới sửa soạn lên đường leo núi. Ngay con trâu mới mua hôm qua cũng không chịu đi theo và cuối cùng chạy đi mất. Chưa hết, trong nhà cãi nhau dữ dội vì việc đi đường nào, cuối cùng chia làm hai nhóm, một nhóm đi thẳng đường lên núi, nhóm kia đi vòng cho bớt nguy hiểm.

Điều gì xảy ra thật thì không ai rõ, vì sau đó mỗi người trong nhóm kể một cách khác nhau. Nhưng điều chung nhất là không ai tìm lại được cái hồ đó cả, và có ai tìm đuợc thì cũng không còn cái hồ hồi trước với nước trong vắt và các thỏi vàng, với vị nữ thần, vị chơi trò cút bắt cùng con người.

36. Phép tạo linh ảnh

Tại một ngôi đền nọ có một đám đông người đang tụ tập để nghe lời khai vị của một vị lạt-ma. Tại Tây Tạng, những buổi lễ đó có khi được gọi là “điểm đạo” hay “chân truyền”. Trong buổi lễ đó, người tham dự thường để dưới chân vị đạo sư một tấm khăn trắng, biểu lộ lòng sẵn sàng đón nhậngiáo pháp. Các giới mộ đạo cũng hay mang theo thực phẩm hay các pháp khí nghệ thuật. Người ta tin rằng càng sẵn lòng cho bao nhiêu sẽ đuợc nhận bấy nhiêu. Giữa đám đông có một bà già, tay mang một kilo mỡ trâu. Bà dự định sẽ mang tặng phẩm này dâng cúng và nhận được phước lành của vị Lạt-ma ban phát.

Thông thường thì một buổi lễ chân truyền được chấm dứt bằng một nghi thức, trong đó các vị chủ lễ rờ đầu của mọi người bằng một bình nuớc thánh. Điều đó biểu tượng truyền tri kiến của thầy qua trò. Nhưng hôm nay, số lượng người đến quá đông, đến nỗi Lạt-ma chủ lễ phải đề nghị mọi người tự tạo hình ảnh trong đầu là Lạt-ma đã đặt bình nước trên đầu mình rồi và như vậy là nghi lễ xem như xong. Phép này đuợc gọi là phéo “tạo linh ảnh”và thường được Phật giáo Tây Tạng áp dụng trong lúc hành trì thiền định. Đối với các vị tu sĩ tinh tấn rồi thì thực hành phép này cũng như hành động đó đã thực tế xảy ra, như trong thế giới thật. Thậm chí một số vị tu sĩcó thể vận dụng linh ảnh cho người khác thấy được nghe thấy thực sự.Tất cả các người hiện diện đều nghe lời vị Lạt-ma và tìm cách vận dụng linh ảnh, xem như vị chủ lễ đã rờ đầu mình bằng bình nước thánh và tri kiến của ngài đã chảy qua mình. Bà già nọ cũng thế, nhờ tu tập lâu ngày đã tạo được linh ảnh, đã nhận được trí huệ vượt văn tự và hình thức vào tâm.Sau buổi lễ, các tín đồ lần lượt đi ngang trước vị Lạt-ma. Đến lượt bà già, bà cầm kilo mỡ trâu trước mặt và nói bằng một giọng rất trầm như giọng Lạt-ma: "Và đến phiên ngài, bạch Lạt-ma, ngài hãy tạo linh ảnh trong tâm để nhận kilo mỡ trâu này, mỡ trâu đang nằm trong tay tôi đây”.

Vị Lạt-ma mỉm cười, bà già tươi cười cho mỡ trâu vào túi và lên đường về nhà, lòng tràn đầy hỉ lạc.

37. Lạt-ma tái sinh

Khoảng một trăm năm sau khi Dodrup Chen thứ nhất thiết lập thư viện mang tên ngài tại Golok thì người ta khám phá ra một đứa trẻ lên bốn, có rất nhiếu dấu hiệu là Dodrup Chen tái sinh. Các Lạt-ma cao cấp cho mang đứa trẻ vào tu viện, đặt lên ngai, xem là vị đạo sư cao cấp nhất. Đồng thời các vị cũng chuẩn bị một buổi lễ ra mắt.

Trong buổi lễ, mới đầu cậu bé tròn mắt nhìn xung quanh, vì toàn bộ các vị chức sắc đều mang lễ phục sặc sỡ và tỏ vẻ hết sức cung kính với mình. Trước cặp mắt ngưỡng mộ của mọi người, bỗng nhiên cậu đứng lên ngai và niệm câu thần chú gọi Guru Rinpoche (đại đạo sư) với một giọng trẻ con. Sau đó cậu bắt đầu múa, vận  dụng mọi ấn quyết của Mật tông. Khi thấy các vị Lạt-ma đứng hàng đầu nhìn mình bằng cặp mắt hâm mộ, cậu bỗng sụp mi mắt xuống và ngồi xuống ngai một cách lúng túng.Các vị Lạt-ma vui mừng hết sức vì chưa bao giờ cậu bé đã tiết lộ cho ai nghe bảy câu kinh bí mật để gọi Guru Rinpoche, đồng thời không ai còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vị tái sinh của một Lạt-ma đắc đạo. Theo thứ tự, các vị nghiêng mình ba lần sát đất trước mặt cậu bé, để dưới chân cậu nhang đèn, khăn trắng và tặng phẩm khác.Sau đó người ta đưa cậu bé đi suốt trong viện. Nhằm thử xem cậu nhớ lại đến đâu, người ta chỉ để Dodrup Chen là người đầu tiên thành lập ngôi tu viện, sau đó có hai vị viện trưởng khác, cũng là các vị đắc đạo, đến rồi đi. Người ta muốn thử xem, liệu cậu bé chính là Dodrup Chen chăng.Nửa chừng cả đoàn người đến một toà nhà nằm ngay giữa tu viện, một ngôi đền thâm nghiêm được che bởi các năng lực siêu nhiên. Giữa chính điện luôn luôn có một Tăng sĩ chuyên đọc tụng các kinh sách truyền lại và tay luôn luôn gõ trống. Đến điện cậu bé bốn tuổi đi thẳng vào đèn và thân mật ngồi bên cạnh vị Tăng đó. Mọi ngưòi đứng lại chen chúc nhìn xem từng hành động của cậu bé. Cậu bé chưa biết đọc, biết viết, tay cầm một cuốn sách tụng niệm, lật từ trang này qua trang khác, dường như kiếm một điều gì.

Tiếng ồn ào ngưng bặt và tiếng trống cũng dừng vì bỗng nhiên cậu bé cất tiếng đọc mật chú từ trong sách đó, mật chú chuyên gọi thần bảo hộ do Dodrup Chen soạn cách đó khoảng trăm năm. Đặc biệt cậu bé bỏ không đọc vài đoạn của mật chú phức tạp này.Tất cả mọi người đều vui mừng: như thế tu viện đã tìm lại được người sáng lập của mình rồi. Nhưng người vui mừng nhất là bậc trưởng lão trong giới Lạt-ma. Ngài nhớ lại rằng, trong một lần xét lại mật chú, Dodrup Chen đã cho rằng có một dòng là dư thừa và chính dòng đó đã bị cậu bé bỏ qua không đọc.

Không ai ngạc nhiên là về sau Dodrup Chen, đạo sư thứ tư của tu viện Golok rất sớm nổi danh vì cậu bé có khả năng lạ thường như đọc tâm ý người khác, tiên tri và mọi thứ thần thông khác. Các vị Lạt-ma cũng để cho cậu thực hành các thứ đó. Nhưng với số tuổi ngày càng lớn, con người đắc đạo đó không còn thích biểu diễn các phép thần thông và vì thế ngày càng giảm chuyện đó đi.

38. Drukpa Kunley ban phép cho một bức tranh

Tại Tây Tạng, khi hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật người ta thường nhờ một vị Lạt-ma dùng gạo ban phép lành và điểm đạo cho bức tranh.

Ngày nọ, có một bà già tay cầm một bức tranh thanka,lên đưòng đến một tu viện, xin gặp vị viện chủ để ngài ban pháp cho. Bức tranh trình bày thần bảo hộ Sri Heruka và được cuốn tròn cho dễ cầm tay.Tu viện nằm trên một ngọn đồi. Bà vừa đi vừa nghĩ, viện trưởng là một vị đạo cao chức trọng, còn em của ngài là Drukpa Kunley lại là một Tăng sĩ phiêu bạt, thì lại không được như thế. Vị này sống không nhà, nhưng không xa tu viện. Vừa nghĩ tới đó thì Drukpa Kunley xuất hiện như một bóng ma từ sau một tảng đá và đứng trước mặt bà.Drukpa Kunley nói giọng lễ phép, đó là điều bất ngờ đối với bà, hỏi bà muốn lên tu viện làm gì. “Trên đó ông anh tôi ngồi như một lãnh chúa với đám tùy tùng”, ông nói, “ngoài ra chẳng có gì đáng coi trọng cả”.

Ai cũng biết thái độ của Drukpa Kunley đối vói các định chế tôn giáo rồi, bà già cũng thế. Bà ngần ngừ, nhưng trước sức mạnh tự nhiên của Drukpa Kunley bà không cưỡng nổi, nói rõ mục đích của mình, mở bức tranh vẽ Sri Heruka cho xem.“Cái bức tranh này mà bà muốn ban phép à?”, Drukpa Kunlay hỏi giọng ngớ ngẩn.

“Tất nhiên rồi”. Bà định nói thêm thì không ngờ người tu sĩ nọ thình lình cởi quần ra tiểu tiện vào đó. “Đây, một người như ta thì ban phép cho mọi thứ tranh ảnh thế này đây”. Nói xong, Drukpa Kunley quay người đi mất.Bà già hoảng hồn cuốn bức tranh quý giá lại và chạy lên núi. Bà tìm gặp ngay viện trưởng và hổn hển kể lại hành đông kimh khủng của ông em.Viện trưởng cười lớn. Ngài không thể giúp gì được. Ngài biết cái tôi khác của ngài, thể hiện trong dạng của ông em khác đời. Ngài biết rõ đứa em phải làm thế, không thể làm khác.

“Hãy mở bức tranh ra”, ngài nói giọng êm dịu. Bà già nghe lời một cách miễn cưỡng. Và xem kìa, mặt bức tranh được tô bằng một lớp bụi vàng lóng lánh.“Sri Heruka đã tự mình ban phép cho bức tranh”, viện trưởng nói. “Bà không cần tôi nữa đâu”.

Bà già xuống núi, lòng còn chút phân vân. Cuối cùng bà treo bức tranh dát vàng lên trên bàn thờ trong nhà và về sau bức tranh được dân làng tôn thờ như một pháp khí.

39. Cái nhìn xấu ác

Có một ngưòi rút vào rừng núi miền Đông Tây Tạng để thực hành phép tu viễn ly. Người Tây Tạng gọi phép tu đó là Chod (23) có nghĩa là “cắt đứt” vì mục đích của phép này là cắt đứt mọi tư tưởng quán chiếu sai lầm, thứ tư tưởng chỉ làm che đậy thể tánh trong sáng của tâm thức.

Buổi sáng, người đó rời lều kiếm một tảng đá để thực hành thiền định thì người em gái mang lại một hũ sữa chua và thực phẩm cho ông. Người em đợi đến buổi tối mà ông ta chưa về nên đặt bình sữa lại dưới bàn thờ và trở về nhà.Lúc ông tu sĩ nọ về tới túp lều thì trời đã tối và không thấy gì cả. Sau bàn thờ chỉ có một ngọn đèn mỡ tí hon, chiếu một cài gì tròn tròn ông chưa bao giờ thấy.“Đó là con mắt của một con ma”, ông bỗng sợ hãi, nhưng cũng lúc đó ông định thần nói: "Không, tất cả mọi sắc thể đều là Không và không có thực”. Ông cẩn thận tháo túi đeo vai và đập lên con mắt, đồng thời lòng tự nhủ kẻ tu phép viễn ly không sợ bất cứ điều gì ở thế giới này hay thế giới khác.

Bình sữa nghiêng một bên và sữa chua văng tung toé mọi phía. Sắc trắng của sữa chập chờn trong ánh sáng mờ mờ như hàng trăm con mắt ma quỉ. Người đó sợ hãi đập loạn xạ, con mắt ma bây giờ đã dính lên túi sách và lan ra khắp nơi. Người tu sĩ bỗng nhớ chỉ còn cách “cắt đứt”. Chỉ một thoáng, ông tách lìa ra khỏi tâm thức đang bị vô minh che phủ, ở đây hiện hành sự sợ hãi và nhận ngay ra tay mình đầy sữa. Cái nhìn của chính ông đã thay đổi, hết lo sợ và thế giới cũng thay đổi theo. Ông cười to.

40. Cuộc đua ngựa bí mật

Cách đây khoảng 130 năm có một biến cố bí ẩn xảy ra tại Kham mà ngày nay người ta còn nhắc nhở. Ngay tại Tây Tạng cũng không dễ gì có chuyện ba vị đạo sư đạo sư đắc đạo cùng nhau gặp gỡ một nơi mà lại báo cho mọi người biết trước để già trẻ tụ họp tham gia cuộc vui. Hồi đó có ba người bạn tại Kham, tuy không thuộc trường phái nào, nhưng lại được tôn kính như các Lạt-ma cao cấp. Người thứ nhất tên gọiKhyentse, thứ hai là Jamgon Kongtrul (24) và thứ ba là Chogyur Lingpa. Cả ba có chung một đặc tính là trong mỗi ngưòi đều chứa đựng những kiến giải cao siêu nhất, nhưng mỗi người lại đều có tính khí khác nhau và một cách riêng để thức tỉnh, giáo hóa và giúp đỡ người khác.

Một ngày kia người ta đồn rằng ba người này sẽ tổ chức một cuộc đua ngựa tại bờ sông Derge. Ai cũng ngạc nhiên về mục đích của trò này nhưng mọi người đều nô nức đến xem, hy vọng có điều gì lạ.Cuộc đua ngựa được tổ chức thật. Ba vị đạo sư đắc đạo ngồi trên lưng ngựa, khán giả reo hò, nhưng họ phân vân không biết mình sẽ ủng hộ ai thắng, hay liệu cuộc đua này chẳng có người thắng kẻ bại. Cuối cùng thì người ta thấy rằng ngựa của Jamgon Kongtrul về cuối.Mọi người lại cực kì ngạc nhiên khi thấy kẻ thua cuộc lại khóc ròng vì người đắc đạo ai lại còn quan tâm đến chuyện được thua, huống hồ là một cuộc đua ngựa. Người ta đoán rằmg có lẽ Jamgon Kongtrul già nhất trong ba người và tính của ngài cũng rất mềm mỏng vì vậy mà ngài buồn chăng.Ba ngày sau, Jamgon Kongtrul mới giải thích như sau: “Ta khóc vì cuộc đua có giá trị tượng trưng. Trong một linh ảnh ta đã được báo trước là người thua là kẻ chết sau cùng và là kẻ cuối được vào cõi Phật cuả Liên Hoa Sinh”. Ta sẽ phải sống dài hơn Khyentse vị tha và Chogyur Lingpa vô song, đó là một điều đáng buồn”.

Đúng như Jamgon Kongtrul tiên tri, vị Lạt-ma này sống rất cao tuổi, sống rất lâu sau ngày các bạn kia nhập diệt và phải đợi đến năm 1899 mời được gặp các bạn trong cõi Phật Liên Hoa Sinh.

41. Nữ thần Tara

Tại Giác Thành, là nơi Phật Thích-ca thành đạo, có một Tăng sĩ. Vị Tăng sĩ đó có một thành kiến với Đại thừa Phật giáo, vị ấy xem Đại thừa là một cái gì trừu tượng. Vị ấy hay giảng giải với các người nghe rằng, Đại thừa hay nói quá nhiều đến vị đại sư đắc đạo, các vị thánh, các vị hộ pháp…, đến nỗi mất luôn sự tin tưởng. Vị ấy chủ trương theo Tiểu thừa, khuyên người đời nên từ bỏ hệ thống Đại thừa quá mênh mông, chỉ làm người ta mất phương hướng.

Như mọi người đếu nghĩ, quan điểm nào cũng phải được thử thách và quan điểm của vị ấy cũng thế. Một ngày nọ, lúc tắm tại sông Ni-liên-thuyền, vị ấy bị nước cuốn trôi. Vị ấy chới với giữa dòng không biết làm sao thì trong đầu bỗng nhớ đến một vị nữ thần trong Đại thừa là Tara (26). Trồi lên ngụp xuống trong dòng nước, vị ấy chỉ còn biết kêu cứu Tara. Đến lúc hầu như tuyệt vọng thì vị ấy bỗng thấy một tượng gỗ chiên đàn khổng lồ trôi bên cạnh. Tượng này vị ấy đã nhiều lần trông thấy và cũng đã hít thở mùi thơm của gỗ chiên đàn. Tượng biểu trưng thần Tara như là người cứu giúp các tâm hồn đang trôi dạt trong biển cả của ảo giác. Vị tu sĩ này biết rõ như thế vì chính ông là người cũng từng chê cười quan điểm bức tượng.Bây giờ vị tu sĩ ôm chặt bức tượng và giữ đầu được cao trên mặt nước để rồi dòng sông xua dạt ông vào một bờ yên tĩnh.Cả vài tiếng đồng hồ sau vị tu sĩ vẫn còn nằm nơi đó. Sông Ni-liên-thuyền đã kéo rách mất chiếc y vàng. Loã thân và run lẩy bẩy, người tu sĩ tiểu thừa ôm chặt bức tượng gỗ thần Tara như một đứa trẻ con ôm mẹ.

Tất nhiên sau đó người tu sĩ bênh vực cho quan điểm Đại thừa, trong đó mọi mức tâm linh đều được coi trọng, kể cả mức tin tưởng nơi sức cứu độ của tượng thần linh.

42. Lời khuyên của một bà già

Jigten Sumgon là một nhà thông thái nổi danh vào thế kỷ 12. Ông nổi danh vì đã vượt qua mọi kiến thức và lý luận của mình để tìm sự thật nằm ẩn giấu sau mọi ngôn từ và khái niệm. Ông truyền bá giáo pháp Đại Ấn Quyết tại Tây Tạng và là người phát khởi một dòng truyền tâm, trong đó sản sinh vô số vị đắc đạo.

Lần đó, Jigten Sumgon đang ở nhà nơi miền đông Tây Tạng, thì bên nhà láng giềng có người chồng vừa chết. Người góa phụ khóc lóc chạy kiếm Jigten Sumgon nhờ an ủi và giúp đỡ.Người góa phụ mới đầu chưa gặp ông, gặp bà mẹ trước. 'Ngồi xuống đây đã', người mẹ an ủi người góa phụ trong bếp và nói tiếp: “Con đau khổ cũng phải, nhưng không cần thiết phải thế. Tất cả cái gì đã sinh thành thì cũng có ngày tan rã, hoại diệt và trở về với nguồn gốc của chúng. Cái chết thì không ai tránh khỏi, mọi sự đều vô thường. Hiểu được như thế cũng là may mắn lắm”.

Góa phụ nọ vẫn không ngừng than khóc, bứt tóc bứt tai. Bà mẹ Jigten Sumgon lại tiếp tục dỗ dành: "Nghe đây, cứ khóc đi, cứ bứt tóc đi, nhưng sau đó con phải biết nghĩ và bớt buồn đi. Đừng quên rằng ngay cả tâm trạng buồn khổ này cũng vô thường, chẳng có thực thể như mây như gió, và nó cũng sẽ vơi đi như mọi thứ trên đời. Ta là một bà già và cũng đã buồn đã khổ, đã thấy nhiều người thân đến đó rồi đi đó. Lời khuyên của ta cho con là: "đừng mang vào lòng bất cứ cái gì cả”.

Nghe tới đây thì người thiếu phụ thấy có gì an ổn trong lòng đang chồng chất. Nàng quên rằng tới nhà này là để kiếm Jigten Sumgon, để nghe lời an ủi của ông. Nàng trở về nhà, lòng bình yên. Trong suốt tang lễ, nàng vẫn nhớ hoài đến lời khuyên của bà già và nhờ thế vượt qua được nỗi đau mất chồng, không phải bị dìm trong đau đớn và tuyệt vọng. Cả làng thấy rõ, nàng bình tĩnh hơn, biết nghĩ hơn cả lúc chồng còn sống và chẳng bao lâu sau, nhiều người tìm đến nàng để nghe khuyên lơn khi có chuyện đau buồn.

Nửa năm sau, Jigten Sumgon đi miền Trung Tây Tạng để tiếp tục giáo hóa phép Đại Ấn Quyết, đó là phép trực tiếp tri kiến Phật tính đang ẩn chứa trong chính chúng ta. Ngài có một số đệ tử cao cấp và đang thảo luận về “vòng luân hồi”, về vòng tròn bất tận của sống, chết và sự tái sinh. Một Lạt-ma già thông thái hỏi vị đạo sư: "Làm sao tránh được cách nghĩ phải thoát khỏi vòng luân hồi trước khi đi vào cõi Niết-bàn?” Jigten Sumgon bất ngờ đứng dậy và đọc bài kệ:

“Ta đang hiện diện, hòa hợp vô ngại

Vì ta nhận ra rằng từ tính mình hòa làm một,

Với Phật và các đạo sư.

Ta hoan hỉ.

Chẳng cần phải cố,

Tôn thờ hay xác quyết bất cứ điều gì.

Như kinh Hevajra Tantra đã nói:

“Luân hồi hay Niết-bàn,

Tốt hay xấu, bên này hay bên kia,

Chúng đều không thật, chẳng có tự ngã, nói là nói vậy thôi

Chỉ vì nói mặt này nên nói mặt kia

Chứ các bạn không thấy hay sao?

Ai thấy tánh của luân hồi

Người ấy đã đạt Niết-bàn.”

Ngày hôm sau Jigten Sumgon nhắc lại buổi trao đổi này và kể cho học trò nghe lời khuyên của mẹ mình đối với người góa phụ. Ngài nói: "Đối với tôi, chẳng có giáo pháp nào cao hơn lời nói của bà mẹ: “Hãy nhận ra tính vô thường của sự vật, thấy chúng không có tự ngã và đừng mang bất cứ thứ gì vào lòng cả.”

43. Tri kiến của một vị A-la-hán

Tu sĩ khất thực Katyayana là một học trò của Phật Cồ-đàm, sống khoảng 500 năm trước Công nguyên. Katyayans được chính Phật Cồ-đàm điểm đạo và trong suốt thời tại thế được xem là một vị “A-la-hán tự tại”, nổi danh khắp Ấn Độ như một minh triết, đã vượt qua sống chết và không còn ảo giác. Cũng như các vị giác ngộ khác, Katyayana có nhiều thần thông, nhưng ngài chỉ dùng nó để giáo hóa và không hề cho những người khác biết đến. Người ta kể rằng, ngài có thể biến tư tưởng hay sự mong cầu thành vật chất. Thay vì theo danh lợi thế gian, ngài thích đi đây đi đó, không hay ai biết và sống bằng của dư thừa, như các vị đạo sư trước ngài.

Có lần, trong chuyến đi, ngài gặp một người đàn bà đang ngồi trước cửa và đang ăn một con cá. Người đàn bà nọ mang một đứa trẻ sơ sinh trong tay, có một con chó đi vòng xung quanh, gặm các miếng xương cá bà vứt cho. Nhưng con chó còn thèm ăn cứ luẩn quẩn mãi khiến bà bực mình đạp chó.Nhìn cảnh tượng này, vị A-la-hán khả kính không nhịn được phải cười. Người đàn bà nhăn trán hỏi: "Thầy có gì vui mà cười?” Bà có cảm giác vị Tăng sĩ này có gì muốn nhắn nhủ bà điều gì. Katyayana trả lời bằng cách đọc bài kệ:

“Ngươi ngồi đó và gặm xương cha ngươi,

Và đạp mẹ ngươi ra một bên

Và nuôi kẻ thù bằng sữa của ngươi.

Ôi, một cảnh tượng bi đát

Cái đó sẽ đẩy trò chơi bất tận này đến bao giờ

Trò chơi của các loài hữu tình”.

Vị A-la-hán đã nhìn thấy bằng huệ nhãn rằng đứa trẻ là tái sinh của kẻ thù ngày xưa của người đàn bà. Con cá chính là người cha trong kiếp trước và con chó không ai khác hơn là bà mẹ vừa mất cách đó không lâu, mà người đàn bà còn thương nhớ. Bà không hề biết mình gặm thịt cha mình và vứt xương nuôi mẹ mình, trong khi đó lại sinh ra đời một kẻ mà ngày trước mình ghét bỏ.

Liệu người đàn bà có học được điều gì qua bài kệ đó, câu chuyện không kể thêm, nhưng Katyayana đã kể chuyện này cho học trò nghe nhiều lần và chuyện kể rằng nhiều vị đã thoát khỏi vòng sinh tử.

44. Trí huệ cũng có thể “lây truyền”

Vùng Kham tại miền Đông Tây Tạng cách đây không lâu chỉ là một nơi hoang dã. Nơi đó chỉ một số rất ít người sống, thỉnh thoảng lại đánh nhau đổ máu là chuyện bình thường. Nghịch lý thay, chỗ này vừa là nơi vũ lực trị vì, đồng thời cũng là một trung tâm của phát triển tâm linh, vì giữa sự yên lặng bao la của Hi-mã-lạp sơn thì ai cũng dễ rơi vào trạng thái đại định.

Patrul Rinpoche, một vị đại sư của dòng Đại Thành hay đến vùng Kham này. Trên vùng núi non Markong, ngài ngồi thiền định, giữa các con đường trơ trọi, ở chỗ nối cuả hai bình nguyên,vì vậy đúng ngay nơi này cũng là nơi các bộ lạc thường đánh nhau.Lần nọ, vị đạo sư định đi du hành suốt vùng, nhưng ngài bỗng cảm nhận được sự nóng bức của một năng lực hủy hoại, hai bình nguyên và các đỉnh núi xung quanh hầu như bị nhiễm độc vì vậy ngài quyết định đem tâm thức an tịnh của mình thể nhập vào các năng lực sân hận đó và xem cuối cùng điều gì xảy ra.Patrul đốt một đống lửa nhỏ trên đường đi, nấu trà, ăn một ít thực phẩm đi đường và lúc cảm nhận có ai sắp đến, ngài liền nằm ngang đường để ai muốn đi qua đều phải bước qua thân ngài.Không bao lâu cả hai phe đều nghe tin có một tên khùng nằm ngay trên đường và xem ra có vẻ muốn làm nhà ở lâu tại đó. Ba người kỵ mã mang đầy vũ khí được ra lệnh tới đường đèo đó, trừ khử tên khùng đó đi.Patrul vừa nhóm lửa và nằm dài ra thì ba kỵ mã vừa tới. Họ nhảy xuống ngựa: "Ngươi điên chưa, hay ngươi bị ốm hay ngươi bị cùi? Ngươi nằm giữa đường như thế để truyền bệnh cho người khác chăng?”

“Đừng lo”, Rinpoche trả lời, mắt nheo nheo. “Như ta thấy thì các ngươi sẽ không được truyền. Ta đang ở trong tình trạng Bodhicitta (Bồ-đề tâm) và thứ này thì không truyền được cho quân đánh nhau như các ngươi đâu”.

Ba kỵ mã lắc đầu nhảy lên ngựa đi mất. Họ cũng thấy không thể gây đau đớm cho một lão áo quần rách rưới nhưng tốt bụng.Rồi như một phép lạ xảy ra, hiềm khích hàng chục năm giữa hai bộ lạc vùng Markhong bỗng nhiên được giải tỏa bằng một hiệp ước hòa bình, trước đó không ai dám mơ tới. Người ta kể rằng ba chàng kỵ mã đó được lão già phiêu bạt đắc đạo nọ “lây truyền “cho tâm Bồ-tát và cứ gặp ai lại lây truyền tiếp thứ “vi khuẩn” đó.Không ai gặp lại người đã lây truyền “vi khuẩn hòa bình" đó nữa. Nhưng người ta kể rằng, ngày sau, Patrul Rinpoche, trong buổi hội họp với đông đảo những người tầm đạo, có nói: "Không chừng Bồ-đề tâm cũng có thể lây truyền, mặc dù ta phải thừa nhận rằng triệu chứng của Bồ-đề tâm ít khi được phát ra trọn vẹn”.Người nghe biết rõ Patrul nói ý gì với từ "triệu chứng”: đó là tâm cảm thông và yêu thương, tâm đó nhận ra chính trái tim mình trong trái tim của mọi loài.

Sau đó Patrul Rinpoche chấm dứt câu chuyện bằng lời cầu nguyện: "Mong thay Bồ-đề tâm vô lượng sẽ được lây truyền cho mọi loài, không sót loài nào”.

45. Chấm dứt một kiếp làm quỷ

Không xa vùng Nyarong có một thành cổ. Không ai dám tới vùng nơi đó vì giữa ban ngày mà người ta vẫn nghe rõ tiếng ma quỷ kêu van.Patrul Rinpoche có dịp đi ngang Nyatong, nghe chuyện đó liền cho rằng loài quỷ này có thể được giải thoát nếu có ai dám vào thành và tụng đọc bộ luận Bồ-đề hành kinh (Bodhicharyavatara) của Tịch Thiên (15) (Shantideva) một trăm lần.Tập Bồ-đề hành kinh (27) là một bộ luận bằng tiếng Sanskrit, thường chỉ dành cho các bậc tôn túc cao cấp. Vào thế kỷ thứ 19, Patrul Rinpoche giảng giải thêm về bộ này một cách rõ ràng và súc tích làm nhiều người cho rằng Patrul phải là một hậu thân của Tịch Thiên.

Một học trò của Patrul là một Lạt-ma trẻ tuổi tên Tsanyak Sherab xin đi và nói: "Con xin vào thành và đọc cho ma quỉ nghe bộ Bồ-đề hành kinh, cho tới lúc họ được giải thoát mọi ác kiến”. Dân làng nghe nói đều lắc đầu và khuyên vị Lạt-ma không nên đi, người ta lo ngại cho tính mạng của vị này vì chưa ai vào thành ra mà lại không bị nguy hại. Thế nhưng Sherab không lo sợ gì cả.Sau khi vào thành, Tsanyak Sherab trải tấm chiếu trong một phòng trống và ngồi trên đó. Sau đó ông bắt đầu tỏa lòng từ bi và nhân hậu ra xung quanh. Ông thiền quán về tính Không, là thể tánh tạo nên mọi hiện tượng và bắt đầu đọc lớn mười chương của tập Bồ-đề hành kinh.Ngày này qua ngày khác ông đọc tập luận. Thỉnh thoảng ông đốt chút lửa ấm để nấu cơm nước. Mỗi khi dân làng thấy có khói bốc lên từ xa, họ lại vui mừng bảo nhau: “May thay, ông Sherab to gan cũng còn sống”, vì họ nghĩ là không ai thoát khỏi tay của ma quỷ.

Một ngày nọ, có một tay liều lĩnh nhất làng thu hết can đảm đến thành cổ để xem vị Lạt-ma và các thính giả vô hình bây giờ thế nào rồi.Anh chàng nọ ngạc nhiên hết sức khi thấy Sherab ngồi an tịnh trên chiếu và tập trung nói chuyện với vách tường cổ. Thấy thế, người nọ cũng tìm một góc ngồi nghe. Sau khi về lại mhà, người nọ kể cho dân làng nghe chuyện và không bao lâu sau, dân làng kéo nhau từng nhóm đến thành cổ nọ để nghe tụng Bồ-đề hành kinh. Tới lúc Tsanyak Sherab đọc lần thứ một trăm xong thì toàn thể dân làng ngồi im lặng như tờ nghe tập luận.

Như một phép lạ xảy ra, từ đó dân làng không còn nghe tiếng ma quỷ kêu van. Ngược lại, nhiều người tập hợp trong thành cổ để cầu nguyện, để tu tập thiền định và để cảm nhận năng lực của Patrul- Tịch Thiên. Họ cảm nhận năng lực đó một cách rõ ràng, như vị đạo sư đang hiện diện đâu đây.

Xem mục lục