30. Tên trộm qui y dưới chân cầu
Ngày xưa có một vị Lạt-ma sống bên dòng sông Dzachu tại miền Đông Tây Tạng và suốt đời thực hành thiền định. Phật tử dâng cúng tặng phẩm mỗi ngày nhưng vị Lạt-ma chỉ lấy thực phẩm, còn các thứ khác nằm ngổn ngang không để ý. Có một tên trộm thấy vậy liền nghĩ: 'Vị Lạt-ma này làm công việc của ta khoẻ thật!'. Y mò tới và nhặt vài tặng vật nghệ thuật mà các tín đồ đặt lên bàn thờ của vị Lạt-ma. Lúc đó vị Lạt-ma đang thiền định, mặt quay về hướng sông. Tuy thế ngài vẫn có cảm giác về một năng lực đen tối sau lưng mình và một tâm hồn đang gây ác nghiệp. Ngài đứng dậy, chụp cổ tên trộm. Vị Lạt-ma nhìn sơ qua tên trộm biết ngay người này tuy đang bị những năng lực đen tối chi phối nhưng vẫn chưa bị cái ác chiếm đoạt hoàn toàn. Nhanh như chớp, vị Lạt-ma chụp một cuốn kinh, đập lên đầu tên trộm và đọc nhiều lần: "Con xin quy y Phật, con xin quy y Pháp, con xin quy y Tăng, con xin quy y Tam bảo”. Sau đó ngài thả tên trộm ra đi, không nói lời gì cả.
Sau đó tên trộm nằm nhoài dưới chân cầu, còn vị Lạt-ma thì tập trung tâm thức của ngài lên hình ảnh, tâm tên trộm sẽ sáng lên một mức và bớt bị những ác nghiệp chi phối. Nửa đêm thì tên trộm tỉnh dậy từ cơn mê ngủ và thấy xung quanh ma quỉ đen tối đứng bao vây mình. Sợ hãi, tên trộm định la lên nhưng y chột nhớ những câu mà vị Lạt-ma mới đọc cách đây có mấy tiếng. Y thầm đọc quy y Tam Bảo, quy y Pháp, Phật, Tăng. Ngay trong lúc đọc, y đã thấy các linh hồn ma quỉ tự ý rút lui, vì chúng không thấy tên trộm còn là bạn bè với chúng nữa.Trong những ngày và tuần lễ sau đó, lúc nào tên trộm cũng đọc quy y và tới một lúc nọ, y thu hết can đảm tìm gặp lại vị Lạt-ma và xin ngài cho y làm đệ tử.
Như tất cả mọi người đều biết, quy y Tam bảo là bước đầu của cuộc hành trình trên con đường đạo, trên đó các cánh cửa của tri kiến thánh đạo sẽ mở được ra. Ai kiên trì luyện quy y một cách thành tâm, người đó sẽ thoát khỏi sự chi phối của những năng lực xấu ác và được thanh lọc. Đó là trường hợp của tên trộm quy y dưới chân cầu và sau bản thân vị đó cũng có nhiều học trò. Nhờ niệm quy y mà các đệ tử đó đều được giải thoát khỏi ảo giác của mình.
31. Nghiệp cũ
Ngày xưa tại Kashmir có một tu sĩ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày, Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy ra. Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sĩ Phật giáo là bất bạo động, ăn chay trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sang ngày hôm sau.
Một ngày nọ Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng để làm màu nhuộm áo. Vị tu sĩ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc. Một nông dân nhìn nồi nước và la lên: "Bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt con bò làm thịt và đang nấu nồi súp”. Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng, chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng. Vị liên trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi. Người tu sĩ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh oan, rõ là một sự thú nhận.
Vài ngày sau, một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả. Mirathi cứ chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau, một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra. Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu chuyện, vì ông là người tin nơi luật nhân quả mà người Ấn Độ gọi là “Karma”. Ông tưởng tượng một vị tu sĩ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sĩ và đưa về kinh đô. Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi: "Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin ngài tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt này?”
“Không”, Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, “Xin ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn khỏi nghiệp đuợc cả. Và như ngài biết, khổ chính là kết quả tất nhiên của những hành động sai trái”.Nhà vua ngạc nhiên hỏi: “Tại sao một tu sĩ cao thượng như ngài mà còn chịu khổ?” Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa, ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệt có một lần ông ăn trộm một con bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.
“Vô số đời sống đã trôi qua từ đó”, Mirathi nói, “vô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này. Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai”.
Nói xong, Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.
32. Hai tên quỉ
Ngày xưa có hai người Bà-la-môn, bên ngoài trông rất thánh thiện nhưng thực tế lại bị tham dục và giận giữ chi phối rất nhiều. Một người tên là Pana, người kia là Nava, cả hai sống tại Ma-kiệt-đà(Magadha) Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau Phật Cồ-đàm.
Hai người này ngày càng lộng hành, càng có thế lực và ham thích quyền lực, cả xứ Ma-kiệt-đà ai cũng sợ hãi. Họ là tác giả của nhiều vụ cướp của, giết người và tra tấn, chiếm đoạt của cải. Mãi đến khi quân lính của nhà vua bắt được và tống giam hai tên này vào ngục thì dân chúng trong vùng mới thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu xây dựng lại cuộc sống.Dần dần ngưòi ta quên đi Nava và Pana vì cũng không ai nghĩ trong ngục thì hai người này làm được gì nữa. Thực tế lại là trong sự cô quạnh ngực tù, hai người này lại càng rơi vào thế lực đen tối của cái ác và cả hai đều nguyền rằng sau khi chết sẽ được tái sinh làm quỉ vương Yakscha. Các của cải trộm cướp được, họ nhờ bộ hạ đem tặng các tu sĩ cao cấp, chỉ với yêu cầu tu sĩ đó cầu nguyện cho người tặng. “Mong thay các vị biếu quà này được toại nguyện, dù tôi không biết đến các vị đó”.
Cầu sao thì được nấy. Pana và Nava chết trong ngục và thần thức của họ đi vào thế giới ma quỉ. Bây giờ, đối với nạn nhân của họ, hai tên này trở thành vô hình vô ảnh, tác hại của nó mới là ghê gớm. Không còn bị thế giới vật chất chi phối, hai quỉ vương này đi vào từng nhà tại Ma-kiệt-đà, ra lệnh vào những đầu óc chịu nghe và bắt đầu kích thích dục vọng của dân chúng. Không bao lâu sau, Pana và Nava gây ra một bệnh dịch tại đó và tìm mọi cách buộc những người có đức hạnh phải ra đi. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến lúc một kẻ biết nhìn ra sự việc và nguyên nhân mọi suy đồi trong nước và báo cho vị đạo sư giác ngộ Savanasika. Savanasika là tổ thứ ba của Phật giáo, lúc đó đã già, nhưng ngài liền lên đường đến Ma-kiệt-đà, ngồi thiền quán trong thế liên hoa ở một hang núi mà hai vị quỉ vương này hay lui tới và vận dụng thần thông gọi họ đến. Hai vị này không để đợi lâu. Từ xa họ đã cảm giác hào quang của vị đạo sư, họ không thích thú lắm nhưng không có cách nào khác hơn là phải đến. Càng tới gần họ càng cảm thấy căm ghét và muốn ra sức đấu với thứ ánh sáng này, ánh sáng xuất phát từ Savanasika. Với một đối thủ này, họ có cảm giác chưa hề gặp.
Trước hang núi, hai vị quỉ dừng lại, vận dụng năng lực của căm ghét lên hang và tác động cho trần hang đổ xuống đầu vị đạo sư.Savanasika vẫn an nhiên bất hoại trước hang động đổ vỡ và toát ra sự từ ái của chính tri kiến vô thượng. Hai vị quỉ đâm ra lo sợ, vận dụng sức công phá thêm một lần nữa rồi lần nữa nhung vị đạo sư vẫn ngồi yên giữa đá sỏi bay mịt mù.Hai vị quỉ đốt lửa, ném thẳng vào vị đạo sư một thân cây cháy hừng. Thay vì rút lui, Savanasika cho khắp nơi đều biến thành biển lửa và gọi lớn: "Tự tính vốn không lay chuyển: không bị lực nào phá huỷ, không lửa nào đốt cháy, không vật nào ngăn ngại”. Nhưng đó là tự tính, còn Pana và Nava cảm giác đau đớn vì lửa, lửa đang đốt cháy thân họ, nóng gấp trăm lần lúc trước, mỗi giây dài như một kiếp. Họ bò lết van xin Savanasika, thú nhận tội lỗi của mình và xin ngài chỉ cho cách thoát khỏi vòng vây hãm của bạo lực và thù hằn.Trong lúc hai vị quỉ vương phải chịu cái đau đớn mà trước đó họ thản nhiên gây cho người khác thì biển lửa đã tắt trong chân như. Chân Như đó không có gì cả mà lại chứa đựng tất cả, từ đó Savanasika đã dùng năng lực của tư tưởng để lấy ra biển lửa. Sau đó ngài bắt đầu giảng cho hai vị quỉ vương nguyên lý cơ bản của Pháp và từ phút đó hai vị này theo vị đạo sư của mình như hai cái bóng biết sám hối.
Như tất cả mọi hiện tượng thế gian, dạng quỉ sứ của hai vị này một ngày nào cũng sẽ chết đi và trong phút giây ấy, hai vị đi vào trong một tầng thiền an lạc, trong đó hai vị cũng không thể lưu trú mãi. Tuy thế, vì hai vị cũng đã trả ác nghiệp một phần, và vì thành tâm hướng theo ánh sáng nên cuối cùng hai vị cũng được sinh vào một cõi sáng sủa.