Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

14 Sắc pháp: 5 Căn, 5 Trần, 4 Ðại. 

50 Tâm pháp: 1 Tâm vương, 49 Tâm sở (so với Câu xá tôn, thì coa ba Tâm sở là Hân ( tánh hớn hở), Yểm (tánh nhàm chán) và Thùy miên và Câu xá tôn ghép thành một Tâm sở, con Thành thật tôn thì chia làm hai là Thùy và Niêm). 

17 Phi sắc phi- tâm pháp (tức là Bất tương ưng hành pháp). Về loại này, Thành thật tôn hơn bên Câu xá tôn ba pháp: Thành thật tôn hợp ""Mạng căn " và "Ðồng phận" lại là một, nhưng lại thêm: Lão, Tử, Phàm phu và Vô tác (tức là Vô biểu sắc bên Câu xá tôn). 

3 Vô-vi pháp( như bên Câu xá tôn) Trạch diệt vô-vi, Phi trạch diệt vô-vi và Hư không vô-vi. 

III.- Phương Pháp Tu Hành 

Phương pháp tu hành của Thành thật tôn cũng gần giống như của Câu xá tôn; nhưng vì Câu xá tôn chủ trương "nhơn không pháp hữu"; còn Thành thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ", nen về phưpưng pháp tu hành của Thành thật tôn,đặc biệt có hai pháp quán là: Ngã không quán và Pháp không quán. 

1.- Ngã không quán và Pháp không quán: 

a) Ngã không quán: như quán trong cái bình không có nước, thì gọi là Không. Quán thân ta do năm uẩn hòa hợp giả tạm mà có, chứ không có một cái ta chân thật. Pháp quán này mục đích là nhận rõ lý ngã (nhơn) không, nên gọi là " Ngã không quán". 

b) Pháp không quán: như sau khi quán cái bình không có nước, lại quán thêm một tầng nữa để thấy rằng, thể chất của bình cũng không chân thật. Aùp dụng pháp quán này trong thân người, hành giả đi đến kết luận rằng: không những cái ta là không thật, do ngũ uẩn tạo thành; mà chính các pháp tạo ra ngũ uẩn cũng không chơn thật. Aáy là pháp quán về pháp không.  

2.- Ba tâm và diệt đế: Phương pháp này cũng gần giống như hai pháp quán trên, nhưng đi xa hơn một tầng, nghĩa là không chấp có, nhưng cũng không chấp không. Ba tâm là: 

a) Giả danh tâm, tức là cái tâm chấp những giả danh, như chấp người ta là có thật. Ðối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí huệ mà quan sát, biết nó đều là nhơn duyên hòa hợp mà sanh, tức chứng được lý nhơn không.  

b) Pháp tâm, là cái tâm chấp pháp thể năm uẩn là thực có. Ðối với sự chấp trước này, hành giả dùng trí Chơn không mà trừ bỏ, thấy được pháp không. 

c) Không tâm là cái tâm chấp cái "không " là thật có, nghĩa là đã quán biết được nhơn ngã, Pháp ngã đều không, mà lại chấp cái "không " là thật. Như thế, chấp "có" đã là sai, mà chấp "không" lại càng sai hơn. Vậy phải quán Ngã, Pháp đều không, mà cái không ấy cũng không có tướng nắm bắt, nhận thấy được, như không giới. Rốt lại chỉ còn cái"Chơn không " là chơn lý tuyệt đối, ngoài ra "có" và "không" của phàm tục. Ðến đây tức là Diệt đế.  

IV.- Quả Vị Tu Chứng 

Về quả vị tu chứng, tôn này cũng giống như Câu xá tôn, có 27 từng bực, tức là 27 vị Hiền Thánh. 

a) Dự lưu hướng: Dự lưu hướng, nghĩa hướng tới dòng thánh; nói một cách nôm na, hành giả đang đi dần đến để nhập vào dòng thánh, như chiếc thuyền dang đi trên dòng sông con, để vào con sông cái. Dự lưu hướng gồm có 3 bực sau đây: 

1.- Tùy tín hành: Tùy tính nghĩa là nghe theo lời dạy của các bậc đã chứng quả, rồi tin và tu tập theo. 

2.- Tùy pháp hành: Vị này không còn đợi có những lời dạy bảo của các bực thánh hiền, nhưng chỉ thuận theo chánh pháp mà tự tu hành. 

3.- Vô tướng hành: Là bậc kiến đạo, thấy được chơn lý của lý diệu đế, trí vô lậu đã phát sanh.  

b) Dự lưu quả: Tức là quả tu đà hoàn. Bực này đã dứt hết những kiến hoặc trong ba cõi, dự vào dòng thánh đạo.  

c.) Nhứt lai hướng: Bực này đã dứt được năm phẩm tư hoặc ở cõi Dục giới, đang hướng đến quả Nhứt lai. 

d.) Nhứt lai quả: Bực này đã dứt được phẩm tư hoặc thứ sáu ở cõi Dục giới, nhưng còn phải trở lại một cõi lần cuối cùng (nhứt lai) ở cõi Dục giới. 

đ) Bất hoàn hướng: Bực này đã dứt được hai phẩm tư hoặc thứ bảy và thứ tám ở cõi Dục giới, và đang tu hành để hướng đến quả Bất hoàng, là quả thoát ra vòng Dục giới và không còn trở về Dục giới nữa. 

e) Bất hoàn quả: Bực này đã hoàn toàn dứt được 9 phẩm tư ở cõi Dục giới, cho nên không trở về cõi Dục giới nữa. Quả này gồm có 11 bực như sau: 

1.- Trung ban: Bực này, sau khi ở cõi Dục giới vừa cheết, sắp sanh lên cõi Sắc giới, cái thân trung ấm tuy còn ở vào khoảng trung gian mà đã dứt trừ các mê lầm phiền não của cõi Sắc giới, nên vào ngay Niết bàn. 

2.- Sanh ban: Bực này sau khi lên cõi Sắc giới, chẳng bao lâu thì vào Niết bàn; ấy là do sự siêng năng về đường tu đạo mà mau tới vậy. 

3.- Hứu hành ban: Bực này sau khi sanh về cõi Sắc giới, tu hành tinh tánh mãi không nghỉ, mà vào được Niết bàn.  

4.- Vô hành ban: Bực này trái lại, sau khi sanh vào cõi Sắc giới, vì trễ nãi đường tu hành, nên thành quả dù chậm đến, nhưng cuối cùng cũng vào Niết bàn.  

5.- Lạc huệ ban: Bực này sau khi sanh vào cõi Sắc giới, lại lần được sanh vào Sắc cứu kính là cõi cao nhất ở cõi Sắc giới mới vào Niết bàn. Cõi trời Sắc giới có định, có huệ, bực này làm huệ làm vui nên gọi là "Lạc huệ".  

6.- Lạc định bàn: Bực này không chịu vào Niết bàn nơi cõi Sắc giới, mà còn muốn chuyển sanh lên cõi Hữu đảnh là cõi cao của Vô sắc giới, mà vào Niết bàn. Trong cõi Vô sắc giới này, chỉ có định mà không có huệ, hành giả lấy định làm vui, cho nên gọi là Lạc định. 

7.- Chuyển thể: Bực này sau khi ở cõi Dục giới, chứng được quả Dự lựu và Nhất lai, đáng lẽ sanh về cõi Sắc giới hay Vô sắc giới, nhưng hành giả lại chuyển sanh vào cõi Dục giới mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn rồi vào thẳng ngay Niết bàn. 

8.- Hiện ban: Bực này không sanh vào cõi Sắc giới, Vô sắc giới, cũng không cần chuyển sanh, chỉ tu tập trong một thời kỳ, chứng luôn ba quả, rồi đi thẳng từ cõi Dục giới vào Niết bàn.  

9.- Tín giới: Bực này, vì căn cơ hơi chậm lụt, nên chỉ tin theo lời dạy bảo của kẻ khác mà tu hành, chứng được quả Bất hoàn. 

10.- Kiến đắc: Bực này, trái lại với bực Tín giới ở trên, chứng được quả Bất hoàn là nhờ có căn cơ lanh lợi, tự nương theo trí huệ của mình mà thôi. 

11.- Thân chứng: Bực này là bực lợi căn tột độ, chứng được Diệt tận định. 

Mười một bực Bất hoàn quả kể trên này, không phải có thứ bậc tuần tự mà hành giả phải vượt qua. Ðây chỉ là 11 trường hợp khác nhau trong quả Bất hoàn, do căn cơ lanh lẹ, hay chậm lụt, do sở nguyện hay hoàn cảnh, tâm tính khác nhau mà ra. Nhưng dù sao, thì cũng là ở trong quả Bất hoàn cả, không có cao và thấp hơn và kém, và đều gọi là A la hán hướng, nghĩa là đang hướng đến quả A la hán. 

Nếu kể từ bậc đầu tiên là: Dự lưu hướng cho đến bậc Bất hoàn quả, gồm cả thảy 18 bậc, thì gọi là bậc Hữu học. 

Còn chín bậc cuối cùng sau đây là chín bậc A la hán quả, cũng gọi là bậc Vo học. 

g) A la hán quả: Quả vị này gồm có 9 bậc, cũng gọi là Vô học, nghĩa là không cần phải học hỏi gì nữa. 

1.- Thối pháp tướng: Thối nghĩa là thối lui. Thối lui ở đây không có nghĩa là thối lui về sanh tử, làm chúng sanh, mà thối lui về cảnh thiền định đã đặng, như các bậc độn căn La hán. 

2.- Thủ hộ tướng: Thủ hộ là gìn giữ bảo hộ. Thủ hộ tướng tức là bậc La hán gìn giữ bảo hộ cảnh thiền định đã được, không mất. 

3.- Tử tướng: Là bực La hán rất nhàm chán thế gian, lại sợ thối mất chỗ chứng ngộ của mình, nên muốn vào liền cõi Niết bàn. 

4.- Trú tướng: Là bực La hán, căn cơ không thể tu tới mà cũng không đến nỗi thối lui, chỉ giữ về bực trung mà thôi. 

5.- Khả tấùn tướng: Khả tấn là có thể tiến thêm nữa. Ðây là bực La hán đã chứng được bực thiền định, mà còn tu tới mãi. 

6.- Hoại tướng: Ðây là bực La hán,căn cơ chậm lụt, nhưng vẫn giữ được không thối lui, mặc dù gặp phải duyên trở ngại. 

7.- Huệ giải thoát: Bực La hán này đã chứng được Diệt tận định, được chơn trí vô lậu, đã giải thoát các phiền não, nhưng chưa ly được sự chướng ngại về cảnh thiền định. 

8.- Cầu giải thoát: Ðây là bực La hán đã giải thoát được cả huệ chướng và định chướng; nghĩa là không còn bị trí huệ hay thiền định làm chướng ngại nữa. 

9.- Bất thối tướng: đây là bực La hán có căn cơ lanh lợi, bao nhiêu công đức trí huệ đã tu tập đều không thối lui hay là tiêu mất được . 

Tóm lại, mặc dù quả vị tu chứng của yôn này có chia ra đến 27 bậc, nhưng đó là muốn chia chẻ một cách rốt ráo của từng trường hợp, chứ đại khái cũng giống như quả vị tu chứng trong Câu xá tôn. Thật vậy, nếu chúng ta đem so sánh quả vị của hai tôn Câu xá và Thành thật, thì sẽ thấy như sau: 

Câu Xá Tông  

1.- Tu-đà-hoàn  

(hay Nhập-lưu)  

2.- Tu-đà-hàm  

3.- A-na-hàm  

(hay Bất-lai).  

4.- A-la-hán  

(hay Vô-sanh Vô-học)  

Thành Thật Tông: 

1.- Dự-lưu-hướng và Dự-lưu-quả. 

2.- Nhứt-lai-hướng và Nhứt-lai-quả 

3.- Bất-hoàn-hướng Và Bất-hoàn-quả 

4.- A-la-hán (Vô-sanh, Vô-học). 

V.- Kết Luận 

Thành-thật tôn, cũng như Câu xá tôn, đều thuộc các tôn phái của Tiểu-thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của hai tôn cũng gần giống nhau, chỉ có khác ở điểm: Câu xá tôn thì chủ trương "nhơn không pháp hữu" , còn Thành-thật tôn thì chủ trương "nhơn không pháp không ". Như thế, Thành thật tôn đã bước thêm một bước lại gần Ðại -thừa Phật giáo hơn. Ðó là một điểm chứng-minh rằng theo với thời gian, Tiểu-thừa và Ðại -thừa càng xích lại gần nhau hơn. Với cái đà ấy, chúng ta hy vọng rồi đây, giữa giên giới hai phái lớn của Phật giáo sẽ được xóa hết, chỉ còn lại một danh từ, một cái đạo chung cho cả thế giới là Ðạo Phật. 

Hoài bảo ấy, hiện tổng hội Phật giáothê giới đang cố gắng thực hiệnqua nhiều quyết nghị trong các đại hội Phật giáothê giới. Và ở Việt namhoài bảo ấy được thể hiện trong những ngày đầu năm 1964, dưới danh hiệu Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Trong giáo hội này, các giáo phái Ðại Thừađều thề nguyện chung sức chung lòng để phát huy nền Phật giáo Việt nam mỗi ngày thêm rạng rỡ. 

Tổng Kết Về Mười Tông 

Chúng ta đã có một cái nhìn tổng quàtvê mười tôn. Chúng ta đã hiểu sơ quạư thành lập tôn chỉ và giáo lý căn bản, sự tu hành váự chứng quả của mười tôn. Vì đay là những bài học phổ thông, nên chúng ta không thẻ đi sâu vào chi tiết,và phạm vi cũng như thời không cho phép chúng tôi nói nhiều hơn nữa. Nếu quý vị đọc giả nào muốn hiểu rõ ràng hơn, hãy tìm các kinh sách nói về mười tôn ấy. 

Mặc dù vắn tắt, qua những bài học này, chúng ta có thể nắm được những điểm chính căn bản của mỗi tôn. 

Mỗi tôn, tuy có một tôn chỉ một chủ trương riêng, nhưng tôn nào cũng thờ đức Phật Thích ca làm giáo chủ, và dựa trên các kinh điển của ngài đã nói mà lập tôn. 

Sự sai khác chẵng qua là cách giải thích vũ trụ hữu hạn và phương pháp tu hành. Chứ còn những điểm chính căn bản, thì mọi tôn phái công nhận giống nhau,là: có một chân như trong suốt , linh diệu bên trong vũ rụ vjn hữu, làm nền móng cho mọi hiện tượng ở thế gian này. Chúng sanh không công nhận được cái chân như ấy, vì chúng sanh bị vô minh che ám; nhưng với phương pháp tu hành mà đức Phật Thích ca đã dạy bảo, chúng ta sẽ giác ngộ và thể nhập với các chân như ấy. 

Nếu sự giải thích vũ trụ vạn hữu có nhiều cách, và phương pháp tu hành có nhiều lối là vì xu hướng và trìnhđộ và căn cơ của chúng sanh không đều; cũng như phương pháp chữa bệnh, phải tùy bệnh nặng nhẹ, phải tùy người mà cho thuốc . làm sao cho bệnh nhân lành bệnh là lương y giỏi. 

Chúng ta rất không may, ở vào thời kỳ mạt pháp , không có lương y giỏi. Nhưng sự giải thích căn bệnh và phương pháp chữa bệnh của các bậc đại lương y là giáo lý của các tôn phái, đang còn đó. Chúng ta hãy tụ nghiên cứu lấy căn bệnh của chúng-ta, và hãy lựa phương thuốc nào thích hợp với bệnh của chúng ta mà uống thì chắc chắn chúng ta sẽ lành bệnh.   

Xem mục lục