Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (30)


Xem mục lục

BÀI HỌC THUỘC LÒNG 
(Quí vị muốn học Nhơn minh luận được dễ hiểu, trước phải học thuộc lòng những danh từ  sau đây) 

Nhơn minh nhập chánh lý luận, nội dung có ba phần (tam chi): Tôn, Nhơn, Dụ. 

Tợ "Tôn" có chín lỗi: 

5 Tôn này đều bị lỗi "trái với tự tướng của các pháp":  
1. Hiện lượng tương vi  
2. Tỷ lượng tương vi  
3. Tự giáo tương vi  
4. Thế gian tương vị  
5. Tự ngữ tương vị  
3 Tôn này đều bị lỗi "bất thành"  
6. Năng biệt bất cực thành  
7. Sở biệt bất cực thành  
8. Câu bất cực thành  
9. Tương phù cực thành (Tôn này lập không có hiệu qua) 

Tợ "Nhơn" có 4 lỗi, phân làm 3 phần: 

I. Bất thành có 4 lỗi  
1. Lưỡng câu bất thành  
2. Tuỳ nhứt bất thành  
3. Dụ dự bất thành  
4. Sở y bất thành  
II. Bất định có 6 lỗi  
1. Cộng bất định  
2. Bất cộng bất định  
3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển,  
Dị phẩm biến chuyển bất định  
4. Dị phẩm nhứt phần chuyển,  
 Đồng phẩm biến chuyển bất định.  
5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định  
6. Tương vị quyết bất định  
III. Tương vi có 4 lỗi  
1. Pháp tự tướng tương vi  
 2. Pháp sai biệt tương vi  
 3. Hữu pháp tự tướng tương vi  
4. Hữu pháp sai biệt tương vi 

Tợ Dụ có 10 lỗi, phân làm 2 phần: 

I. Tợ đồng có 5 lỗi  
1. Năng lập pháp bất thành  
2. Sở lập pháp bất thành  
 3. Câu bất thành  
4. Vô hiệp  
5. Đảo hiệp  
II. Tợ dị dụ có 5 lỗi  
1. Sở lập pháp bất khiển  
2. Năng lập pháp bất biến  
 3. Câu bất khiển  
 4. Bất ly  
5. Đảo ly.  
  
  
  
 

NHƠN MINH LUẬN CƯƠNG YẾU

NHƠN MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ? 

Trước thời Phật Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm),ở Ấn độ có nhiều phái  
ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị  
Tổ của các phái, lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này được tín dụng và  
đắc lực trong thời kỳ ấy. 

Đến khi Phật ra đời, thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và vừa hợp thời,  
được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo  
đem về chánh lý. 

Sau khi Phật nhập diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị Bồ Tát ra  
đời ở Ấn độ, sưu tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết. 

Về sau Ngài Trần Na Bôtát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần: Tôn, Nhơn,  
Dị và viết ra bộ "Nhơn minh nah65p chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước,  
người ta gọi là: "Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn minh". 

Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn dộ học Phật pháp,  
rất tinh thông về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý luận Nhơn minh  
này mà biện luận, làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục. 

Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa. 

Vì sự đòi hỏi của tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú giải bằng chữ Việt. 

SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN?" 

Nhơn minh luận là một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa có qui tắc.  
Điều cố yếu là phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận lý mới chơn chánh  
và đúng đắn, nên gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận". 

Vì nhờ "Nhơn" mới rõ được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi "Nhơn" rất trọng yếu  
như vậy, nên gọi là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn minh là một  
trong ngũ minh 

NỘI DUNG CỦA NHƠN MINH 

Nội dung của Nhơn minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh có thêm  
2 phần: Hiệp và Kết là 5 phần:  
Cổ Nhơn minh :  
1. Tôn: Nhơn loại đền phải chết.  
2. Nhơn: Vì có sanh vậy.  
3. Dụ: Như loài vật  
4. Hiệp: Phàm có sanh phải có chết  
5. Kết: Loài vật có sanh, nên loài vật phải có chết;  
nhơn loại có sanh, nên nhơn loại phải có chết.  
Tân Nhơn minh  
1. Tôn: Nhơn loại đền phải chết.  
2. Nhơn: Vì có sanh vậy.  
3. Dụ: Phàm có sanh phải có chết, như loài vật. 

*** 

A.TÔN

Phàm nói ra một câu gì, hày trình bày một lập thuuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi là Tôn.như nói:  
Tôi ăn cơm. 

Tôn có nhiều tên, như: 

1. Tiền trần(danh từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 

2. Hậu trần (danh từ sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 

Thí dụ như nói: Tôi ăn cơm 

Tôi Tiền trần(danh từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 

ăên cơm Hậu trần (danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt. 

TÔN CÓ TÔN Y VÀ TÔN THỂ 

I.Tôn y gồm có 2 phần  
1. Tiền trần:Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng  
2. Hậu trần: Pháp, Năng biệt và Sai biệt. 

II. Tôn thể._Cổ Nhơn minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu trần làm  
Tôn thể. 

Tân Nhơ minh (từ Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vẫt kiện để lập Tôn,  
nên đều là Tôn y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể. 

CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN 

Phàm lập Tôn phải tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ tư cách để  
thành lập luận thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi gồm có: 

1. Hiện lượng tương vi._Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như hiện tiền ai cũng hiểu  
biết rằng: Mũi ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn  
1. Tai tôi nghe mùi thơm  
2. mắt tôi thấy tiếng nói v.v ... 

Vì nói như vậy là trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai rồi.  
Tôn đã sai thì làm sao lập được "Nhơn" và "Dụ". 

2. Tỷ lượng tương vi._ Lập cái Tôn rái với sự "so sánh phân biệt". Theo sự so sánh hiểu biết  
của người: Phàm là người, ai cũng phải chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có  
hình phải có hoại, cũng nhu bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại lập Tôn rằng: 

Tôn  
1. Tôi sống hoài không chết.  
2. Cái nhà tôi không bao giờ hư. 

Lập Tôn như vậy là trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi. 

3. Tự giáo tương vi._ Lập cái Tôn, trái với giáolý của mình tôn thờ. Nói rộng ra là trái với chủ  
nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng. 

Như trong Đạo Phật nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới cực lạc ở  
phương Tây v.v...". chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng: 

Tôn  
1. Chúng sanh không có luân hồi quả báo  
2. không có nước cực lạc. 

Ngoại nhơn hỏi lại: "Ông nói như vầy, thì mâu thuẩn với Tôn giáo của ông. Vậy ông nói  
đúng lý, hay Tôn giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời nói ông sai,  
còn lời nói của ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái nào đúng?"  
Họ không cần bác mà mình cũng bị thua. 

4. Thế gian tương vi._ Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự hiểu biết của thế gian.  
Thế gian có 2 hạng người: Có học thức và không học thức. 

Nếu đối với người có học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy: 

Tôn  
1. Ông Thiên lôi đánh anh Xoài chết  
2. Bịnh ho lao không phải do vi trùng gây nên. 

Lập cái Tôn như thế, bị lỗi trái với thế gian, với những người có hoc thức (Khoa học).  
Vì khoa học (người có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên", và không công nhận  
có ông Thiên lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học thức. 

Trái lại, nếu đối với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị lỗi  
thế gian tương vi. 

Tôn  
1. Không có ông Thần ban phuớc giáng hoạ.  
2. Bịnh ho lao phát sinh do vi trùng. 

Bởi thế người thế gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ không biết vi trùng.  
Mặt dù chúng ta nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên họ không công nhận.  
Bởi họ không công nhận, nên lời nói sau của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi  
"Thế gian tương vi". 

5. Tự ngữ tương vi._ Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu thuẩn với lời nói trước  
của mình. Như lập: 

Tôn  
1. Vật này bao nhiêu mà rẽ vậy?  
2. Ông này mù mà cái chi cũng thấy hết. 

Đã không biết giá là bao nhêu, tại sao biết rẽ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng thấy.  
Lời nói của mình tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, thì ai  
công nhận là phải. 

6. Năng biệt bất cực thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương không công nhận.  
Như đối với Pht học hay khoa học mà lập cái Tôn như vầy: 

Tôn  
1. Thế giới này (danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh.  
2. Anh Ồi (danh từ trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh. 

Phật học và khoa học đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có  
"Thần Tạo vật" và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi "bất thành". 

7. Sở biệt bất cưc thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối phương không công nhận.  
Như đối với Phật học và khoa học, lập như vầy: 

Tôn  
1. Thần Tạo vật (danh từ trước) sanh ra loài người.  
2. Thái cực (danh từ trước) sanh ra vạn vật. 

Loài người và vạn vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhhận có: còn  
Thần Tạo vật và Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc học đều không công nhận, nên bị lỗi "bất thành". 

8. câu bất cực thành._ Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau", bên đối phương  
đều không nhìn nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy: 

Tôn  
1. Cốc thần, Thái cực tức là chơn như  
2. Thần Tạo vật chính là Thái cực. 

Bên khoa học không nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo vật" và cũng  
không nhìn nhận danh từ sau là "Chơn như hay Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối phương  
không hiểu, hoặc hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữ. Nên bị lỗi "bất thành". 

Tóm lại, ba lỗi bất thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối phương không hiểu,  
hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai nguyên nhơn: 

1. Lập không đúng.  
2. Lập đúng mà thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy. 

9. Tương phù cực thành._ Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. Như lập: 

Tôn  
1. Cơm ăn no bụng.  
2. Nước uống đã khác. 

Phàm cĩa nhau là vì hai bêb ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như mình, mà mình  
còn lập thêm cxái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị lỗi "tương phù" (trùng điệp). 

Trong 9 lỗi về Tôn, tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tươmng vi"; từ 6 đến 8 là thuộc vể lỗi "Bất thành".  
Lỗi thứ 9 vì lập trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn. 

PHỤ BÀI HỌC ÔN  
(ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỢ TÔN)

Quý vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc về lỗi gì? 

1. Mẹ tôi không có chồng. 

2. Không có Trời Đất Quỷ Thần. 

3. Không Nhơn quả, Luân hồi. 

4. Không Thiên đường và Địa ngục. 

5. Trời sanh muôn loại. 

6. Trời không luân hồi. 

7. Minh sơ sanh Thần ngã. 

8. Vò vò bắt sâu làm con của nó. 

9. Tai nghe mùi thơm. 

10. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi. 

11. Tôi trường sanh bất tử. 

12. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy. 

13. Ông mù này, cái chi cũng thấy. 

14. Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ.  

Xem mục lục