| Thượng tọa Huệ Viên, họ Vu quê ở Toan  Tảo, Khai Phong vốn làm nghề nông. Sau Sư xuất gia ở chùa Kiến Phúc, bản  tánh chậm chạp, trì độn nhưng làm việc rất chăm chỉ, cẩn thận. Sư nghe  Thiền đạo phương Nam rất hưng thạnh bèn xuất du đến chùa Ðông Lâm ở  Giang Châu, bị tăng chúng trong chùa coi thường lắm. Một hôm Sư hỏi  huynh đệ rằng: 
 - Thế nào là thiền?
 
 Họ đùa:
 
 - Ði hỏi xem! Cái gì kêu được là thiền (con ve)!
 
 Sư không hiểu, bèn ngồi quay vào tường suy nghĩ mãi cứng cả lưng. Sau  vài tháng, đi ra sân chùa, bỗng trợt chân té nhào, bèn khai ngộ. Sư nhờ  một hành giả:
 
 - Tôi không quen bút mực, muốn làm một bài tụng, nhờ ông viết giùm lên vách.
 
 Hành giả cười bằng lòng. Ðề rằng:
 
 Gặp lần này, gặp lần này!
 Muôn lượng vàng ròng cũng tiêu ngay
 Nón đội đầu, bao cột lưng,
 Gió mát trăng trong đầu gậy quảy.
 (Giá nhất giao, giá nhất giao.
 Vạn lượng hoàng kim dã hợp tiêu
 Ðầu thượng lạp, yêu hạ bao
 Thanh phong minh nguyệt trượng đầu thiêu).
 Ngay ngày đó Sư rời Ðông Lâm. Ðến khi Thiền sư Tổng thấy được bài kệ, giật mình nói:
 
 - Có nạp tử chân tham đến đây! Kệ hay quá! Không thể thêm gì vào nữa!
 
 Rồi cho người đi tìm, nhưng không ai biết Sư đã đi đâu.
 
 61. NGÔN PHÁP HOA
 
 Ngôn Pháp Hoa chẳng biết từ đâu đến, tướng Sư cổ quái, nói năng phóng  khoáng, ẩn hiện không lường. Sư thường xăn quần vào chợ, hoặc có khi lấy  tay vẽ trên không rồi đứng yên hồi lâu. Sư lại kết giao với bọn hàng  thịt, ăn uống theo họ, đạo tục đều gọi Sư là Cuồng tăng.
 
 Lúc Sư đến viện Thất Câu Chi ở chùa Cảnh Ðức. Thừa tướng Lữ Hứa Công hỏi về đại ý Phật pháp. Sư đáp:
 
 - Xưa nay không một vật, nhất vị thảy đều chơn.
 
 Tăng hỏi:
 
 - Ðời có Phật không?
 
 Sư đáp:
 
 - Trong chùa có Văn Thù.
 
 Hỏi:
 
 - Sư là phàm hay Thánh?
 
 Sư đưa tay lên nói:
 
 - Ta không trụ nơi này.
 
 Niên hiệu Chí Hòa năm thứ ba (1056), vua Nhân Tông ban đầu không được  vui vì chưa có người nối ngôi. Thiên hạ buồn bã. Gián quan Phạm Trấn chủ  trương làm một cuộc đại nghĩa, xin chọn người hiền trong hàng tôn thất,  cho làm thái tử trong khi chờ đợi hoàng tử ra đời. Thông Phán Tinh Châu  là Tư Mã Quang cũng nhân đó mà bàn, dâng sớ cho vua đến ba lần. Một  đêm, vua thắp hương thầm khấn: "Ngày mai sẽ thiết trai ở điện Hóa Thành,  kính thỉnh đại sĩ Pháp hoa đến dự, đừng chối từ.
 
 Sáng sớm, vua  sai Y Ngưng đứng đón. Lát sau, ông ta vào báo rằng sư Pháp Hoa đang vào  cửa bên phải. Sư vào thẳng tẩm điện (phòng ngủ của vua), thị vệ hét  đứng lại mà không được. Vua cười bảo:
 
 - Sư đến theo lời trẩm thỉnh đó.
 
 Sư leo luôn lên giường vua và ngồi xếp bằng, thọ trai xong bèn đi. Vua nói:
 
 - Trẫm vì chưa lập được thái tử, đại thần bàn cố gắng kiếm con muộn, không biết có được không? Xin Sư định giùm việc này!
 
 Sư đòi giấy bút, viết:
 
 Thập tam, thập tam
 
 Phàm số thập hành.
 
 Rồi ném bút không nói thêm lời nào. Mọi người không hiểu nổi. Sau này  Anh Tông lên ngôi . Vua là con thứ mười ba của An Hiển Vương, nghiệm lại  đúng lời Sư đã viết.
 *** 
 Lữ  Thần Công mong đúng vào ngày nhậm chức đốt sớ thỉnh Sư thọ trai. Sáng  hôm sau Sư đến nhà ngồi. Công vừa bước ra, tự nghĩ không biết nên lễ hay  không? Sư bèn kêu to:
 
 - Già Lữ! Mau ra đây! Lễ cũng được, không lễ cũng được!
 
 Lữ Công thất kinh bèn đến làm lễ. Thọ trai xong. Lữ Công hỏi việc vị lai thế nào? Sư viết hai chữ "Hào Châu".
 
 Về sau nghĩ việc, đến Hào Châu mới rõ. trường hợp Thiên Y Nghĩa gặp Sư ở Cảnh Ðức. Sư vỗ lưng Nghĩa Hoài nói:
 
 - Lâm Tế, Ðức Sơn đây!
 
 Nghĩa Hoài nhân đó phấn khởi hành Thiền, Sư làm hưng thạnh đạo của Vân Môn, con cháu rõ ràng mới thấy lời Sư thật linh nghiệm.
 
 Ngày 23 tháng 11 năm Canh Tý (1960), Sư thị tịch. Trước đó bảo với mọi người:
 
 - Ta từ vô lượng kiếp đến nay, thành tựu rất nhiều quốc độ, phân thân hoàng hóa rộng rãi. Nay ta sẽ về phương Nam.
 
 Nói xong nằm nghiêng bên phải mà tịch.
 
 Có nơi nói: Sư họ Hứa quê ở Thọ Xuân. Ðến năm mười lăm tuổi, Sư dạo  Ðông Ðô, xuất gia ở viện Câu Chi, qua lại giảng tứ rất lâu (nơi giảng  kinh). Một hôm đọc ngữ lục Vân Môn, hốt nhiên khế ngộ, bèn được linh  thông.
 
 Hà Nam Chí nói: Chí Ngôn họ Hứa, từ Thọ Xương đến chùa  Cảnh Ðức ở Ðông Kinh, bói việc cát hung cho người, viết chữ rất mau, nét  cứng cỏi mạnh mẽ, thoạt xem khó hiểu, về sau ứng nghiệm. Ai dâng cúng  thịt nem, Sư cũng ăn hết, đến sông mửa ra hóa thành cá nhỏ lội theo đàn.  Khách đi biển gặp sóng gió sắp chìm, liền thấy Sư quăng dây kéo thuyền  đưa đi. Ðến bến, khách bước xuống. Sư bảo rằng:
 
 - Nếu không có ta, chẳng biết các ông ra sao!
 
 Khách ghi nhớ dáng mạo của Sư chính là người đã dẫn thuyền. Sau Sư  tịch, Nhơn Tống đem họa tượng chân thân của Sư thờ trong chùa, bảng đề  Hiển Hóa Thiền sư.
 
 62. HÒA THƯỢNG THIÊN TUẾ Ở TRUNG THIÊN TRÚC
 
 Sư tên Bảo Chưởng, người ở Trung Ấn Ðộ. Ðời Ngụy Tấn, Sư đi về phương  Ðông, tự bảo rằng mình đã sáu trăm bảy mươi ba tuổi, sanh vào đời Oai  Liệt Vương nhà Chu năm thứ mười hai, tức năm Ðìnhh Mão. Lúc mới sanh bàn  tay trái nắm chặt, gỡ ra có viên ngọc, nhân đó đặt tên. Ban đầu Sư đến  Nga Mi, Ngũ Ðài rồi về phương nam đến Hành Lô; vào đất Kiến Nghiệp gặp  Tổ Ðạt Ma ở triều Lương bèn hỏi đạo. Ngộ được vô sanh pháp nhẫn. Lương  Vũ Ðế trọng vì tuổi đạo mời vào nội đình cúng dường. Chưa bao lâu Sư qua  Ngô, thuật kệ:
 
 Lương Thành ngộ đạo sư
 
 Tham thiền rõ tâm địa
 
 Phiêu linh dạo tam Triết
 
 Khắp hết non nước đẹp.
 
 Rồi đi thăm khắp danh sơn Lưỡng Triết, ưa thích cảnh Thiên Trúc đẹp đẽ,  Sư liền cất am ở đến bốn mươi lăm năm. Rồi Sư đến Thiên Thai ở Tứ Minh,  dạo khắp các danh sơn, du lịch nhiều nơi.
 
 Niên hiệu Trịnh Quán  thứ mười lăm (641) đời Ðường, Sư trở lại Trúc Phong. Khá lâu lại dời  đến Bảo Nham, Phổ Giang. Niên hiệu Hiển Khánh thứ hai (657), ngày đầu  năm, Sư bắt đầu đắp tượng, chín ngày hoàn thành, giống Sư như hệt. Xong,  Sư bảo với đồ đệ:
 
 -Ta ở tạm thế gian này ngàn năm. Từ lúc đến Trung Hoa, thấm thoát đã qua bốn trăm năm. Nay dư ra hết bảy mươi hai năm rồi.
 
 Sư nói kệ xong liền tịch. Người đời gọi Sư là Hòa thượng Thiên Tuế. Sư có dặn rằng:
 
 - Sau khi ta tịch, có vị tăng sẽ đến lấy xương ta, đừng cản.
 
 Năm mươi bốn năm sau, trưởng lão Thích Phù đến đó làm lễ, cửa tháp mở  ra, được xương của Sư, toàn bộ tỏa ánh sáng. Nhân đó Trưởng lão giữ lại  làm một tháp khác để thờ, tôn Sư làm Thủy Tổ khai sơn ở Trung Trúc.
 
 Tán rằng:
 Người sống bao lăm Sương sớm mất tăm
 Sanh Chu đến Ðường
 Vốn tạm thế thôi
 Ðông đợi Ðạt Ma
 Tâm ấn mới truyền
 Ai bảo Phật pháp
 Chỉ ở Ðông Thiên?
 (Nhân thọ kỷ hà
 Triêu lộ thệ xuyên
 Sinh Chu, thiệp Ðường
 Bổn tạm tắc nhiên
 Ðông trì Ðạt Ma
 Tâm ấn thủy truyền
 Thục vân Phật pháp
 Ðộc tại Ðông Thiên?)
 |