Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Ba                              PHẦN CÒN LẠI CỦA GIỚI                              TRỘM CẮP     Lại nữa, khi Phật                              ở tại thành Vương Xá, nói rộng như trên, phép trị                              người có tội trong thời tổ tiên của Vua Bình Sa như                              sau:                              - Nếu có kẻ ăn                              trộm thì dùng tay tát vào đầu để nghiêm trị, kẻ ấy                              sẽ thấy xấu hổ chẳng khác gì sắp chết, về sau không                              dám tái phạm.                              Ðến đời ông nội                              của vua, phép trừng trị kẻ ăn trộm như sau:                               - Nếu có kẻ ăn                              trộm thì bắt đứng một chỗ, dùng tro rắc chung quanh,                              một lát thì thả đi, kẻ trộm đó sẽ rất xấu hổ (242c)                              chẳng khác gì người chết, về sau không tái phạm.                              Ðến đời phụ vương                              của vua, phép trị tội kẻ ăn trộm như sau:                               - Nếu có kẻ ăn                              trộm thì đuổi ra khỏi thành, kẻ trộm sẽ lấy làm xấu                              hổ như người chết không khác, về sau không dám tái                              phạm nữa.                              Còn phép trị tội                              của vua Bình Sa như sau:                              - Nếu có kẻ ăn                              trộm thì đuổi ra khỏi nước, lấy đó làm điều răn đe.                              Lúc bấy giờ có kẻ                              trộm đã bị trục xuất bảy lần, nhưng y vẫn trở lại                              cướp của giết người nơi các thành ấp. Khi ấy có                              người bắt được y trói lại, đem đến vua, tâu với vua                              rằng: "Tên trộm này đã bị trục xuất bảy lần, nhưng                              vẫn trở lại cướp của giết người tại các thành ấp,                              xin đại vương hãy nghiêm trị thật nặng"                              Vua nói với vị                              đại thần ấy: "Ðem tên trộm này đi, tuỳ theo tội mà                              ttrừng rị ".                              Vị đại thần bèn                              tâu: "Thôi đi, thôi đi đại vương. Ðại vương hãy tự                              trị tội y, chớ giao cho hạ thần. Hạ thần sao dám                              chuyên quyền qua mặt đại vương. Mệnh lệnh của đại                              vương giờ đây vẫn được tôn trọng, phép trừng trị                              phát xuất từ đại vương, hãy còn lâu dài".                              Vua nói: "Hãy đem                              hắn ra chặt ngón tay út đi"                              Bấy giờ quan hữu                              ty liền cấp tốc đem tội nhân ra chặt ngón tay út của                              hắn, vì sợ vua sẽ sinh hối hận. Khi ấy vua liền cắn                              thử ngón tay mình bèn cảm thấy đau đớn không chịu                              nổi, liền sai người đến truyền lệnh cho đại thần                              rằng: "Chớ chặt ngón tay của hắn".                              Vị đại thần bèn                              trả lời với vua: "Ðã chặt ngón tay của hắn rồi".                              Vua rất hối hận,                              âu sầu, liền tự nghĩ: "Ta nay chính là vị pháp vương                              cuối cùng, chứ chẳng phải là vị pháp vương đầu tiên.                              Phàm làm vua thì phải lo nghĩ đến dân chúng và muôn                              loài, chứ lẽ nào làm vua người ta mà lại chặt tay                              người ta".                              Thế rồi, vua Bình                              Sa ra lệnh cấp tốc chuẩn bị xa giá đi đến Thế Tôn.                              Ðến nơi, vua đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang                              một bên, bạch với Phật rằng:                              - Bạch Thế Tôn!                              Phép trị những kẻ có tội của tằng tổ trẫm là dùng                              tay tát vào đầu, lần hồi trải qua các đời vua cho                              đến đời của trẫm, thì ác pháp mỗi ngày mỗi gia tăng,                              chánh lệnh dần dần suy giảm. Trẫm may mắn được làm                              vua, lại làm thương tổn đến thân người, tự trách                              mình vô đạo, thấy hổ thẹn, sợ hãi cực độ".                              Phật hỏi: "Ðại                              vương! Theo phép nước thì kẻ ăn trộm bao nhiêu tiền                              bị tội tử hình? Ăn trộm bao nhiêu tiền thì bị trục                              xuất ra khỏi nước? Ăn trộm bao nhiêu tiền thì dùng                              đến hình phạt roi gậy?"                              Bấy giờ vua Bình                              Sa bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Cứ một kế lợi sa                              bàn là mười chín tiền chia làm bốn phần, nếu ăn trộm                              một phần (4,75 tiền) hay hơn một phần thì đáng tội                              tử hình".                              Khi ấy, đức Thế                              Tôn tùy thuận thuyết pháp giảng dạy cho vua Bình Sa,                              khiến vua được lợi ích, hoan hỷ, những mối hối hận                              phiền muộn liền trừ diệt, vua bèn lễ Phật, rồi từ                              biệt.                               Vua đi không lâu                              sau đó, Thế Tôn liền đi đến chỗ có đông các Tỉ-kheo,                              trải tòa mà ngồi, rồi nói với các Tỉ-kheo : "Vừa rồi                              vua Bình Sa đến chỗ ta, đảnh lễ ta rồi ngồi sang một                              bên, bạch với ta rằng: "Bạch Thế Tôn! Phép trị tội                              của tằng tổ Trẫm là dùng tay tát vào đầu tội nhân,                              và chánh lệnh giáo hóa được kế thừa cho đến đời của                              Trẫm". Ta liền hỏi nhà vua: "Ðại vương, ăn trộm bao                              nhiêu (243a) tiền thì đáng tội chết? Cho đến ăn trộm                              bao nhiêu thì bị hình phạt roi gậy?"Vua nói: "Cứ một                              kế lợi sa bàn là 19 tiền, trong 19 tiền chia là 4                              phần, nếu ăn trộm một phần (4,75 tiền) hay hơn một                              phần thì đáng tội tử hình". Ta vì vua Bình Sa tùy                              thuận thuyết pháp, sau khi nghe pháp, nhà vua đã                              hoan hỉ, từ giã ra đi. Này các Tỉ-kheo ! Từ nay phải                              biết: Cứ 19 đồng tiền xưa được gọi là một kế lợi sa                              bàn, chia một kế lợi Sa bàn ra làm 4 phần, nếu lấy                              trộm một phần (4,75 tiền) hay hơn một phần thì phạm                              tội Ba La Di".                              Bấy giờ, các                              Tỉ-kheo bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao vua                              Bình Sa sợ tội đến như thế?"                              Phật nói với các                              Tỉ-kheo : "Vua Bình Sa không những đời này sợ tội                              như vậy, mà trong đời quá khứ cũng đã từng sợ tội".                              Các Tỉ-kheo bạch                              với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðã từng có như vậy sao?"                              Phật dạy: "Ðúng                              như vậy! Trong đời quá khứ có một thành phố tên Ba                              La Nại, nước tên Ca Thi. Khi ấy, có một vị vua tên                              là Danh Xưng. Nhân dân trong nước lúc bấy giờ đều                              dùng những kỹ thuật khéo léo để sinh sống như kỹ                              nhạc, ca xướng, hoặc dùng các dụng cụ để trang sức                              như vàng bạc, châu báu vòng hoa anh lạc, hoặc điều                              khiển voi ngựa và làm các đạo thuật, thứ gì cũng                              khéo léo, không gì là không tinh xảo, dùng những                              phương tiện ấy làm kế sinh sống. Nếu kẻ nào không                              biết những kỹ thuật khéo léo, thì được xem là người                              ngu. Hoặc có kẻ nào ăn trộm cũng được gọi là người                              ngu si. Bấy giờ, có một người ăn trộm, dân chúng                              biết được, trói y đem lên vua, thưa rằng: "Tâu đại                              vương! Kẻ này làm việc ngu si, xin đại vương trừng                              trị hắn". Vua nói: "Thôi đi, thôi đi, người đời kẻ                              thì mất của, kẻ thì ăn trộm, lẽ nào ta lại thêm việc                              ác nữa". Thế rồi vua suy nghĩ: "Ta dùng phương tiện                              gì đây để chỉnh đốn quốc pháp, khiến cho quần thần                              không biết (việc này), ác pháp không sinh khởi?"Vua                              lại suy nghĩ: "Từ xưa đến nay, giờ đây mới có người                              ngu. Những người ngu không đến ngàn người. Ta phải                              sai kẻ hầu cận đem người ngu này giao lại cho một vị                              đại thần và bảo khi nào đủ ngàn người ngu, sẽ bảo                              lại cho ta hay, ta sẽ mở một đại hội". Viên đại thần                              ấy bèn nhận lấy người ngu, rồi giam vào một chỗ.                              Liền sau đó, vua suy nghĩ: "Kẻ ngu si kia chưa chết                              đói chăng?", liền bảo quan đại thần dẫn kẻ ngu đến,                              lại nhắc nhở ông: "Phải khéo trông nom người này chớ                              để cho y đau ốm, đem y vào sống trong vườn Vô ưu của                              ta, rồi cung cấp các thứ ngũ dục âm nhạc tiêu khiển".                              Viên đại thần tuân chỉ, đối xử với người ngu ấy như                              những gì vua đã căn dặn.                              Lúc bấy giờ lại                              có một kẻ ngu khác nghe vua bắt được một người ngu,                              rồi đưa vào an trí trong vườn Vô Ưu, cung cấp các                              thứ kỹ nhạc, bèn dẫn thân đến chỗ quan viên đại thần                              thưa: "Tôi là kẻ ngu si". Viên đại thần vì muốn tuân                              thủ mệnh lệnh của vua, liền đưa y vào (243b) trong                              vườn Vô Ưu. Làm như vậy không bao lâu thì đã đủ số                              ngàn người. Viên đại thần liền tâu lên nhà vua: "Những                              kẻ ngu nay đã được ngàn người, bệ hạ muốn làm gì thì                              hãy làm gấp". Vua nghe lời tâu ấy rất đổi ưu sầu, tự                              nhủ: "Từ xưa lại đây lâu xa lắm mới có một kẻ ngu                              si, vì sao ngày nay trong thời gian không lâu mà đã                              có cả nghìn người, hay là đời mạt thế ác pháp tăng                              trưởng?". Thế rồi, vua ra lệnh quần thần quét dọn,                              đốt hương, treo tràng phan bảo cái, sửa soạn các                              thức ẩm thực ngon lành tại vườn Vô Ưu. Các bề tôi                              bèn tuân lệnh làm đầy đủ các việc mà vua đã ban                              truyền. Khi ấy, vua cùng các quan, 18 bộ chúng du                              hành đến vườn Vô Ưu. Ðến nơi, an tọa xong, vua hỏi                              các quan: "Những người ngu nay ở đâu hãy gọi cả đến                              đây". Những người ngu đều đến đầy đủ. Vua thấy những                              người ngu sống lâu trong vườn quần áo dơ bẩn, móng                              tay dài, tóc rối, liền ra lệnh các quan: "Dẫn những                              người ngu này đi tắm rửa, thay quần áo mới, hớt tóc,                              cắt móng tay, rồi mới dẫn đến đây". Khi họ đã trở                              lại, vua liền ban các thức ăn uống, đem cho của cải                              và các thứ cần thiết, rồi truyền lệnh: "Các ngươi                              hãy trở về nhà lo cung cấp cho cha mẹ, siêng lo                              nghiệp nhà, chớ có ăn trộm nữa". Bấy giờ, những                              người ngu nghe vua truyền lệnh, đều hoan hỷ phụng                              hành. Thế rồi, nhà vua ấy bèn đem ngôi báu truyền                              lại cho thái tử, xuất gia, vào núi, học pháp của                              tiên nhân. Khi ấy nhà vua đọc kệ:                              "Xưa tìm ngàn                              người ngu,  Phật nói với các                              Tỉ-kheo : "Quốc vương Danh Xưng thuở ấy đâu phải                              người nào khác mà chính là vua Bình Sa ngày nay vậy.                              Vua Bình Sa từ xưa đến nay thường sợ tội báo, ngày                              nay làm vua lại tiếp tục sợ tội".                              Các Tỳ kheo liền                              bạch với Phật:                              - Bạch Thế Tôn!                              Vì sao vua Bình Sa ra lệnh thi hành rồi, phút chốc                              lại hối hận?".                              Phật bảo với các                              Tỉ-kheo : "Vua Bình Sa này không những ngày nay ra                              lệnh thi hành rồi liền hối hận, mà trong đời quá khứ                              cũng đã từng hối hận".                              Các Tỳ kheo liền                              bạch với Phật: "Ðã từng có như thế sao?"                              Phật dạy: "Ðúng                              như vậy. Trong đời quá khứ, có một người Bà la môn                              không có tiền của, lấy nghề ăn xin để nuôi sống. Vợ                              người Bà la môn này không sinh con, nhưng trong nhà                              có con Na Câu La (?) sinh được một con. Vì không có                              con nên người Bà la môn này xem (243c) con của Na                              Câu La như con trai của mình, đồng thời con của Na                              Câu La cũng xem ông Bà la môn như cha mình.                              Bấy giờ ông Bà la                              môn đến chơi nhà người khác, nếu được sữa, bơ và                              bánh thịt đều đem về nhà cho Na Câu La. Sau đó vợ                              ông bỗng nhiên mang thai, khi đủ mười tháng liền                              sanh một con trai, bèn suy nghĩ: "Có lẽ nhờ Na Câu                              La sinh ra đứa con tốt lành (Cát tường) nên ta mới                              có con". Khi ấy, Bà la môn muốn đi khất thực, bèn                              bảo vợ: "Nếu bà có đi đâu, phải đem con theo, cẩn                              thận chớ để nó ở nhà". Người vợ Bà la môn cho con ăn                              xong bèn đến nhà láng giềng mượn cối giã gạo. Lúc ấy                              đứa con bà ăn tô lạc có mùi hương thơm, nên một con                              rắn độc đánh hơi bò đến, hả miệng nhả độc, muốn giết                              đứa bé. Na Câu La liền suy nghĩ: "Cha ta đã ra đi,                              mẹ ta cũng không có ở nhà, thế mà con rắn độc này                              lại muốn giết em ta, bèn đọc kệ:                              "Ðộc xà, Na Câu                              La  Khi ấy Na Câu La                              liền giết rắn độc, chặt làm bảy khúc, rồi suy nghĩ:                              "Nay ta giết rắn để em được sống, cha mẹ biết được                              ắt khen thưởng ta, rồi lấy máu bôi lên miệng ra đứng                              chờ ngoài cửa, mong rằng cha mẹ thấy thì sẽ rất vui                              mừng". Lúc ấy ông Bà la môn đang trên đường trở về,                              từ xa trông thấy bà vợ ở nhà hàng xóm, bèn nổi giận                              mắng: "Ta đã bảo bà có đi đâu thì đem con theo, vì                              sao lại đi một mình?".                              Rồi ông định vào                              nhà, thì thấy trong miệng Na Câu La có máu, liền tự                              nghĩ: "Vợ chồng ta đi vắng, Na Câu La ở nhà đã bắt                              giết con ta ăn thịt rồi chăng?", bèn nổi giận nói: "Uổng                              công ta nuôi đồ súc vật này, đến nỗi bị nó làm hại",                              liến sấn đến dùng gậy đập chết Na Câu La. Ðoạn bước                              vào trong nhà, thì thấy đứa con trai đang mút tay                              vui đùa, lại thấy bên cạnh nó bảy khúc thân con rắn                              độc. Thấy sự việc như thế, ông rất ưu sầu, hối hận,                              bèn tự thống trách mình: "Na Câu La này rất có nhân                              tình, đã cứu mạng con ta, mà ta không xem xét cẩn                              thận, lại đập chết nó, thật đáng xót thương. Thế rồi,                              ông nằm lăn quay trên đất bất tỉnh. Lúc ấy có vị                              thiên nhân đang ở trên không trung đọc kệ:                              "Nên quan sát cẩn                              thận,   Phật bảo các                              Tỉ-kheo: "Người Bà la môn thuở ấy đâu phải ai khác                              mà chính là Vua Bình Sa. Ngày xưa ông đã từng làm                              việc khinh suất rồi sau lại hối hận, ngày nay cũng                              lại như vậy". Thế rồi, Phật bảo các Tỉ-kheo đang                              sống xung quanh thành Vương Xá phải tập họp lại tất                              cả, dù cho ai nghe rồi, cũng phải nghe lại, bèn chế                              giới như sau:                               "Nếu Tỉ-kheo ở                              trong xóm làng hoặc nơi vắng vẻ mà lấy vật người ta                              không cho, bị vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc                              tẫn xuất, nói: "Ôi nam tử! Ngươi là kẻ trộm chăng?                              là kẻ ngu si chăng?"Tỉ-kheo ăn trộm như vậy thì phạm                              tội Ba la di, không được sống chung (với tăng chúng).                              [Giới thứ                              hai (trộm cắp) đến đây là hết]                              Giải thích:                              Tỉ-kheo:                              Là người đã thọ giới cụ túc, đã khéo thọ giới cụ túc,                              tuổi đủ hai mươi, không bị các già nạn, thọ giới                              trước mười vị thầy (thập sư) hay hơn mười vị, trải                              qua một lần tác bạch và ba lần yết ma. Ðó gọi là                              Tỉ-kheo .                              Xóm làng:                              (tụ lạc) là nơi có những bờ tường vây quanh hoặc có                              những hàng rào, bờ sông, kinh đào vây quanh.                              Xóm làng                              còn có nghĩa:                              Vùng đất thả trâu, khu đất trẻ em vui chơi, bãi đậu                              xe, chỗ trâu nằm nghỉ, nới có từ bốn căn hộ và một                              chỗ chất củi cũng gọi là xóm làng.                              Chỗ đất                              trống:                              (không địa): Chỗ đất trống là nơi ở ngoài bờ tường,                              ngoài thiền viện, trừ ranh giới của xóm làng, ngoài                              ra đều là chỗ đất trống.                              Ranh giới                              của xóm làng:                              Không xa chỗ ở, nơi đường cái người ta đi lại, gọi                              là ranh giới của xóm làng, như ở bên ngoài bờ đê,                              hào mương, hàng rào, trừ ranh giới của xóm làng,                              ngoài ra đều là chỗ đất trống.                              Vùng đất                              thả trâu:                              Ở ngoài xa ranh giới của nhà cửa xóm làng, trừ ranh                              giới của xóm làng, ngoài ra đều là chỗ đất trống.                              Những công                              viên trẻ em vui chơi:                              Là chỗ ở rất xa bãi xe, trừ ranh giới của xóm làng,                              ngoài ra đều là vùng đất trống.                              Bãi đậu xe                              (doanh xa tụ lạc):                              Những bãi đậu xe cách xa xóm làng, trừ ranh giới của                              xóm làng, ngoài ra đều là chỗ đất trống.                              Chỗ trâu                              nằm nghỉ (ngưu miên tụ lạc):                              Ở bên ngoài rất xa nhà cửa, trừ ranh giới của xóm                              làng, ngoài ra đều là chỗ đất trống.                              Xóm làng có                              từ bốn ngôi nhà và một chỗ để củi:                              Chỗ cách nhà cửa rất xa, trừ ranh giới của xóm làng,                              ngoài ra đều là chỗ đất trống.                              Không cho:                              Hoặc là nam, hoặc là nữ, hoặc là kẻ hoàng môn phi                              nam phi nữ, hoặc là cư sĩ, hoặc người xuất gia, dùng                              tâm trộm cắp để lấy vật mà người ta không cho, thì                              tùy theo vật lấy trộm... Các vật ấy có tám loại:                              1.- Thời dược (thuốc                              dùng đúng thời)  Ðó gọi là tám vật.                              Lấy:                              Nghĩa là cầm vật dời khỏi chỗ cũ, đó gọi là lấy.                              Tùy theo ăn                              trộm:                              Không giống như mười sáu trường hợp giám hộ, chẳng                              hạn lấy trộm của nhà vua một món tiền nhỏ (244b)để                              mua dưa ăn mà bị vua bắt giết. Vì vua không có phép                              nhất định mà tùy theo ý mình, hoặc ăn trộm chút ít                              mà bị giết, hoặc ăn trộm nhiều mà không bị giết.                               Như trường hợp                              đức Thế Tôn hỏi về pháp của vua Bình Sa sau đây: "Ðại                              vương trị nước, ăn trộm chừng bao nhiêu tiền thì bị                              tử hình? Bao nhiêu tiền thì bị trục xuất? Bao nhiêu                              tiền thì bị đánh khảo?".                              Vua Bình Sa trả                              lời Phật: "Cứ 19 tiền là một kế lợi sa bàn, một kế                              lợi sa bàn chia làm bốn phần, nếu lấy một phần, hay                              hơn một phần, thì đáng tội chết. Nay tùy theo mức độ                              ăn trộm mà lấy đó làm chuẩn".                              Vua:                              Nghĩa là Sát đế lợi, Bà la môn, trưởng giả, cư sĩ                              nhận chức làm vua.                              Vua bắt:                              Vua sai người bắt, hoặc họ nắm tay, hoặc nắm các chỗ                              khác, thì gọi là bắt.                              Giết:                              Kết liễu mạng sống thì gọi là giết.                              Hoặc giam:                              Hoặc giam trong nhà, hoặc giam trong thành, hoặc                              giam trong thôn, hoặc gông cùm, hoặc xiềng xích, thì                              gọi là giam.                              Tẫn xuất:                              Trục xuất ra khỏi xóm làng, trục xuất ra khỏi thành                              thị, trục xuất ra khỏi nước, thì gọi là tẫn xuất.                              Than ôi, kẻ                              nam tử:                              Nếu Tỉ-kheo bị những lời khiển trách như: Ngươi là                              kẻ trộm, ngươi là kẻ si mê, ngươi là kẻ ngu muội,                              thì phạm tội Ba la di, không được sống chung (với                              Tăng chúng).                              Ba la di:                              Nghĩa là đối với giáo pháp, tâm trí bị lui sụt, đọa                              lạc, không được đạo quả. Ðó gọi là Ba la di. Như vậy                              cho đến tận trí, vô sinh trí, đối với các trí ấy bị                              lui sụt, đọa lạc, không được đạo quả, thì gọi là Ba                              la di.                              Ba la di còn có                              nghĩa là: Ðối với đạo quả Niết bàn bị lui sụt, đọa                              lạc, không chứng đắc, thì gọi là Ba la di.                              Ba la di còn có                              nghĩa là: Vi phạm giới không lấy trộm, lui sụt, đọa                              lạc, thì gọi là Ba la di.                              Ba la di lại còn                              có nghĩa là: Những tội vi phạm không thể phát lồ sám                              hối, nên gọi là Ba la di.                              Thời dược:                              Tất cả các rễ cây, tất cả các thứ ngũ cốc, tất cả                              các thứ thịt.                              Rễ cây:                              Thuốc trị bệnh, rễ cỏ, rễ sen, rễ tre, rễ khoai nước,                              rễ nho, rẽ hành, thì gọi là rễ.                              Ngũ cốc:                              Gồm mười bảy loại. Ðó là:                               1) Lúa. 2) Lúa đỏ.                              3) Tiểu mạch. 4) Ðại mạch. 5) Ðậu nhỏ. 6) Ðậu hồ.7)                              Ðậu lớn. 8) Ðậu đăng. 9) Lúa tẻ. 10) Lúa mạ. 11) Mè.                              12) Gừng. 13) Xà trí. 14) Ba tát đà. 15) Hạt cỏ lát.                              16) Chỉ na câu. 17) Câu đà bà.                              Ðó gọi là mười                              bảy loại mễ cốc.                              Thịt:                              Thịt của các loài trên đất và dưới nước.                               Thế nào là loài                              vật ở dưới nước?                              - Loài vật ở dưới                              nước là: Cá, rùa, đề di, chi la, tu la, tu tu la, tu                              tu ma la. Những loài ở trong nước có thể ăn thịt                              được như vậy gọi là các loài ở trong nước.                              Thế nào là loài                              vật ở trên đất?                              - Loài vật ở trên                              đất là: Loài hai chân, bốn chân, không (244c) chân,                              nhiều chân, như vậy đều gọi là loài vật ở trên đất.                              Các thức ăn bằng                              rễ, bằng hạt, bằng thịt như vậy đều thuộc về thời                              thực (thức ăn đúng lúc). Vì sao vậy? - Vì đúng giờ                              mới được ăn, không đúng giờ thì không được ăn, nên                              gọi là thời thực. Nếu Tỉ-kheo với tâm trộm cắp, xúc                              chạm các thứ thuốc đúng thời (thời dược) thì phạm                              tội Việt tỳ ni. Nếu lay động vật ấy thì phạm tội                              Thâu lan giá. Nếu dời khỏi chỗ cũ, đủ (năm tiền) thì                              phạm tội Ba la di.                               Loại thuốc                              dùng ban đêm (dạ phần dược):                              Gồm 14 loại nước trái cây (tương) như sau:                               1) Nước trái Am                              la. 2) Nước trái lê. 3) Nước trái lựu. 4) Nước điện                              đa lê (?). 5) Nước nho. 6) Nước Ba lâu sa. 7) Nước                              kiền kiền. 8) Nước chuối. 9) Nước Kế già đề. 10)                              Nước kiết phả la. 11) Nước bù lung cừ. 12) Nước mía.                              13) Nước Kha lê đà. 14) Nước Khư ba lê.                              Các loại nước này,                              nếu nhận được vào lúc tối thì uống vào lúc tối, nếu                              nửa đêm nhận được thì uống vào lúc nửa đêm, nếu cuối                              đêm nhận được thì uống vào lúc cuối đêm, hoặc trước                              bữa ăn nhận được để đến chiều tối uống, thì gọi là                              thuốc dùng ban đêm (dạ phần dược). Nếu Tỉ-kheo có                              tâm lấy trộm xúc chạm vào loại thuốc dùng ban đêm                              này thì phạm tội Việt tỳ ni.                               Nếu làm lay động                              chúng thì phạm tội Thâu lan giá.                              Nếu di chuyển                              khỏi chỗ cũ đủ số (quy định) thì phạm tội Ba la di.                              - Thuốc                              dùng trong bảy ngày:                              Sữa, dầu, mật, đường phèn, mỡ, sữa tươi.                              - Sữa: Các loại                              sữa như sữa bò, sữa trâu, sữa dê, sữa linh dương,                              sữa lạc đà.v.v..                              - Dầu: dầu mè,                              dầu xà lách, dầu hoàng lam, dầu a đà tư, dầu tì ma,                              dầu tỉ lâu, dầu tỉ châu mạn đà, dầu ca lan giá, dầu                              sa la, dầu a đề mục đa, dầu mạn đầu, dầu đại ma, và                              các loại dầu khác thì gọi là dầu.                              - Mật: Các thứ                              mật quân trà, mật bố để, mật ong ruồi, mật ong đất,                              đều gọi là mật.                              - Ðường khối: Như                              đường bàn đà, đường na la, đường mạn xà, đường ma ha                              tì lê.v.v... thì gọi là đường khối.                              - Mỡ: như mỡ cá,                              mỡ gấu, mỡ bi, mỡ tu tu la, mỡ heo. Những thứ mỡ này                              không có xương, không có thịt, không có máu, không                              có mùi hôi, không phải thức ăn chính, nếu Tỉ-kheo                              bệnh nhận được thì cho phép dùng trong bảy ngày. Ðó                              gọi là mỡ.                              - Sữa tươi: Như                              các thứ sữa tươi của bò, dê.v.v... được lọc sạch,                              không phải thức ăn chính, nếu bỗng nhiên nhận được                              thì được phép uống trong bảy ngày. Ðó gọi là thuốc                              dùng trong bảy ngày.                              Nếu Tỉ-kheo với                              tâm trộm cắp, xúc chạm loại thuốc dùng trong bảy                              ngày, thì phạm tội Việt Tì Ni.                               Nếu làm lay động                              vật đó, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Thuốc                              dùng suốt đời:                              Ha lê lặc, Tỳ lê lặc, A ma lặc, cây lá lốt, tiêu,                              gừng, quả sống đời (trường thọ), quả đào tiên, quả                              vú sữa, quả đậu đỏ, quả Ba la tất đa, quả chuối, (bàn                              na); loại có năm rễ nhỏ, loại năm rễ lớn, (245a) tất                              cả các thứ muối, tất cả các loại tro trừ 8 loại tro,                              tất cả các thứ đất, trừ đường khối, đất sỏi; những                              loại thuốc này không phải là thức ăn.                              Nếu vừa mới nhận                              thì Tỉ-kheo bệnh có thể để uống suốt đời. Ðó gọi là                              loại thuốc uống suốt đời.                              Nếu Tỉ-kheo với                              tâm trộm cắp xúc chạm loại thuốc dùng suốt đời thì                              phạm tội Việt Tì Ni.                              Nếu làm lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu di chuyển                              khỏi chỗ cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Vật tùy                              thân:                              Ba y, tọa cụ, y che ghẻ, áo mưa, bát, đại kiền tư,                              tiểu kiền tư, đãy đựng bát, túi đựng đồ tắm, đãy lọc                              nước, hai loại đai thắt lưng, dao cạo, muỗng bằng                              đồng, bát nhỏ, ống đựng kim, bình nước, cái gáo để                              tắm, bình đựng dầu, bình con, tích trượng, giày da,                              dù, quạt và các vật dụng cần thiết khác, đó gọi là                              vật tùy thân, lại có những vật tùy thân của người                              thế tục như khí giới, dao, gậy, quần áo và các vật                              dụng cần thiết khác của người bạch y cũng gọi là vật                              tùy thân.                              Nếu Tỉ-kheo dùng                              tâm trộm cắp xúc chạm vào các vật ấy thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động vật                              đó thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Vật nặng                              (trọng vật):                              Như giường, vật dùng để nằm và các vật nặng khác.                              - Giường,                              vật dùng để nằm:                              Giường nằm, giường để ngồi, mền nhỏ, mền lớn, khúc                              gỗ, tấm ra, cái gối, và các vật nặng khác như các                              vật bằng đồng, bằng gỗ, bằng tre, bằng gạch.v.v....                              - Các vật                              bằng đồng:                              Bình đồng, nồi đồng, chảo đồng, muỗng đồng và các                              dụng cụ bằng đồng khác, gọi là dụng cụ bằng đồng.                              - Các vật                              bằng gỗ và tre:                              Hộp bằng gỗ, bình gỗ, chậu bằng gỗ, chén gỗ, thìa                              bằng gỗ, cái giỏ tre, chiếu tre, cái sọt bằng tre,                              và tất cả các vật bằng gỗ, bằng tre khác, gọi là các                              vật bằng gỗ và bằng tre.                              - Vật bằng                              đất:                              Từ cái vò lớn cho đến cái chén dùng làm đèn đều gọi                              là vật bằng đất, gạch.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp rờ vào các vật nặng ấy thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Vật bất                              tịnh:                              Tiền, vàng, bạc; vì Tỉ-kheo không được chạm đến nên                              gọi là vật bất tịnh (vật không tinh khiết).                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp sờ vào các vật bất tịnh thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               - Vật thanh                              tịnh và không thanh tịnh:                              Trân châu, lưu ly, ngọc trai, san hô, pha lê, xà cừ,                              mã não, ngọc bích. Vì các bảo vật ấy có thể rờ đụng                              mà không thể mang vào mình, nên gọi là vật thanh                              tịnh và không thanh tịnh.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp sờ vào vật thanh tịnh và không thanh                              tịnh thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Lại có                              mười sáu loại vật khác:                              Ðất, vật trong đất, nước, vật trong nước, thuyền,                              vật trong thuyền, xe, vật trên xe, loài bốn chân,                              (245b) vật ở trên loài bốn chân, loài hai chân, vật                              ở trên loài hai chân, loài không chân, vật ở trên                              loài không chân, hư không, vật ở trên hư không.                              1- Thế nào là đất?                              - Mỏ vàng, mỏ bạc,                              mỏ đồng, mỏ thiết, mỏ bạch lạp, không thanh thư (?),                              đá vàng, đá diêm sinh, bụi, đất đỏ, đất trắng dẻo và                              các thứ đất thợ gốm dùng đều gọi là đất.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp sờ vào các loại đất ấy thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                               Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              2- Vật ở trong                              đất: Nếu người ta chôn dấu các thứ vào trong đất như:                              Tiền, vàng, bạc, pha lê, ngọc trai, trân châu, xa cừ,                              mã não, bình sữa, bình dầu, bình đường khối và các                              loại cây, rễ, cành, lá, quả dùng làm thuốc.v.v...                              cho đến tám vật cất giấu vào trong đất thì gọi là                              vật trong đất.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp sờ vào các vật trong đất ấy thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              3- Nước: Nước gồm                              có mười loại: Nước sông, nước ao, nước giếng, nước                              đầm sâu có rồng ở, nước trong, nước suối nóng, nước                              không nhiễm bệnh, nước mưa đã lọc, nước trên không                              trung, nước đang chảy; có nơi thì nước rất quí, có                              nơi thì nước không quí, hoặc một đồng được bốn năm                              bình, hoặc đổi tất cả vật sở hữu mới được một bình,                              như ở gần thôn ấp thành thị mà có nước tốt, thì một                              đồng được năm sáu bình.                              Như có người                              khách buôn phải đi qua những con đường xa xôi hoang                              vắng, hoặc năm do tuần, hoặc mười do tuần, cho đến                              năm trăm do tuần, trên đường đi không có nước, các                              vị khách buôn ấy đều phải đem nước theo, hoặc tự tìm                              lấy, hoặc phải mua lấy. Khi ấy có một khách buôn còn                              một ít nước, không đủ dùng, vì khát bức bách, suy                              nghĩ: "Nếu ta còn sống, sẽ kiếm ra tiền, còn nếu ta                              khát nước mà chết thì tiền dùng để làm gì?", bèn đem                              tất cả tài vật đổi lấy một bình nước. Bấy giờ, có                              Tỉ-kheo đi theo người khách buôn, người này thường                              cung cấp nước cho Tỉ-kheo ; nhưng khi chưa đến nơi                              thì nước sắp hết, lúc ấy người khách buôn nói với                              Tỉ-kheo : "Ðường đi còn xa mà nước lại sắp hết, vậy                              xin hiến số nước này cho tôn giả, và số nước này để                              tôi uống". Tỉ-kheo phải lượng số nước mà khách buôn                              đã cho để dùng, nếu dấy tâm ăn trộm uống nhiều nước,                              đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu chưa đủ số                              quy định thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu khách buôn                              nói: "Nước tôi cung cấp cho tôn giả, xin chớ cho                              người khác". Nhưng nếu lúc ấy có người già cả bệnh                              hoạn bị khát bức bách, đến Tỉ-kheo xin nước uống, vì                              lòng từ bi, Tỉ-kheo muốn cung cấp nước cho người                              bệnh ấy, bèn suy nghĩ: "Chủ nhân tuy đã nói như thế,                              nhưng người bệnh này đáng thương, nay ta nên đem                              nước cho ông". Nếu chủ nhân cũng có lòng chiếu cố,                              đồng ý, không khiển trách (245c) thì không phạm.                              Có người dùng                              thuyền chở nước, Tỉ-kheo vì khát nước bức bách, dấy                              tâm trộm cắp chạm vào nước trên thuyền của ông ta                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu dùng bát hoặc                              gáo múc nước ấy mà chưa rời khỏi thuyền thì phạm tội                              Thâu Lan Giá.                              Nếu đã mang nước                              đi mà thân thể và y phục đều rời khỏi thuyền, đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo khoét                              bình chứa nước của người ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu dùng ống đút                              qua lỗ trống uống nước, đủ số quy định, thì phạm tội                              Ba La Di.                              Nếu thoắt uống                              thoắt nghỉ, thì mỗi hớp phạm mỗi tội Thâu Lan Giá.                              Nếu đồ đựng nước                              trước đó được đậy nắp mà Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp mở                              nắp ra thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi đang rót nước                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Rót xong mà đủ số                              quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu lúc đang rót                              nước, liền sanh tâm hối hận, sợ phạm tội nặng, bèn                              đổ nước vào lại trong bình, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá.                              Nếu muốn kéo                              thuyền đi để lấy trộm nước, khi kéo thuyền tới, đuôi                              thuyền quá chỗ đầu thuyền thì phạm tội Ba La Di.                              Hoặc kéo ngược thuyền về phía sau, khi đầu thuyền                              qua khỏi chỗ đuôi thuyền, hoặc kéo qua bên phải, khi                              bên trái thuyền qua khỏi chỗ bên phải, hay ngược                              lại, liền phạm tội Ba La Di.                              Nếu thuyền nhỏ dễ                              lay động mà Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp đụng vào                              thuyền thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động nó                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cu,õ đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu có người đắp                              bờ ngăn nước (chảy vào ruộng) mỗi đêm đáng giá một                              tiền cho đến 2,3,4,5 tiền mà Tỉ-kheo vì Phật Pháp                              Tăng khởi tâm trộm cắp phá hoại bờ của họ thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu nước chảy vào                              ruộng mình thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu đủ số quy                              định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo không                              muốn trực tiếp phá hoại mà dùng phương tiện kéo                              gạch, cây đi qua khiến cho bờ vỡ, nước chảy thì lúc                              kéo qua phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu chảy vào                              ruộng thì phạm tội Thâu Lan Giá                              Ðủ số quy định,                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu dùng phương                              tiện lùa bò, dê, lạc đà đi qua làm hư bờ cũng như                              thế.                               Nếu Tỉ-kheo có                              tâm ganh tỵ, phá bờ cho nước chảy thoát thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu Tỉ-kheo cùng                              với khách buôn đi qua vùng hoang dã, có người nói:                              "Ngày mai sẽ tới chỗ có nước". Lúc ấy có người khách                              buôn đang gánh nước đi, Tỉ-kheo vì khát nước, đến                              xin Y mà không được, liền nổi giận mắng: "Kẻ tệ ác                              kia! Vì sao ngươi keo kiệt quá thế? Mang nước đi                              nhiều mà không dám uống, cũng không cho loài súc                              vật, cũng không cho Sa môn, Bà la môn, chẳng bao lâu                              cũng phải bỏ, chớ dùng nó làm gì nữa?". Tỉ-kheo liền                              phá thùng nước của y, vì tâm ác nên phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Nếu có người dùng                              bồn chứa nước để tại nhà, rồi những bà con, bạn bè                              của Tỉ-kheo bị cháy nhà, Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm                              nước để chữa lửa, nếu đụng vào nước thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu làm lay động                              bồn nước của họ thì phạm tội (246a) Thâu Lan Giá.                              Nếu dùng nước                              tưới lên lửa đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu tự suy nghĩ:                              "Sẽ trả lại đủ số nước đã lấy dùng", thì không phạm.                              Nếu nhà của người                              ấy bị cháy dùng nước của Y để tưới lửa tắt thì không                              phạm. Nếu gặp lúc hạn hán mười năm, hai mươi năm,                              nước ao hoặc nước giếng có người giữ gìn mà Tỉ-kheo                              dấy tâm trộm cắp mang thùng đến lấy nước, chạm vào                              nước ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu múc nước thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu gánh nước rời                              khỏi ao, đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu hồ nằm ở                              trong vườn, họ đóng cổng lại, mà Tỉ-kheo khởi tâm                              trộm cắp, dùng ống từ xa hút nước uống, khi nước                              đang chảy liên tục không ngừng mà đủ số quy định thì                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu uống từng hớp                              từng hớp rồi dừng lại, thì mỗi hớp phạm mỗi tội Thâu                              Lan Giá.                              Nếu nước ở dưới                              giếng, Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm, thì khi múc nước,                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi đã múc nước                              đổ vào thùng thì phạm tội Thâu Lan Giá. Và khi mang                              nước rời khỏi giếng, đủ số quy định thì phạm tội Ba                              La Di.                              Có những nhà                              ngoại đạo dùng bình chứa nước, khi nhà bị cháy, họ                              hoảng sợ mà khi ấy Tỉ-kheo suy nghĩ: "Kẻ ngoại đạo                              tà ác như thế, như thế thường đố kỵ Phật pháp, hủy                              báng Sa môn Thích Tử, nay ngươi đang bị họa". Liền                              đi tới dùng gậy đập vỡ bình nước, vì ác tâm phá hoại                              đồ của người ta nên phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Có các loại nước                              danh tiếng như nước Chiêm Ba có nước của sông Hằng,                              tại thành Vương Xá có nước suối nóng, tại ấp Ba Liên                              Phất có sông Thứ Nô, tại nước Ba La Nại có nước ao                              Phật Du Hành, tại nước Sa Kỳ có nước Huyền chú, tại                              thành Xá Vệ có nước Bổ Ða Lê, tại nước Ma Thâu La có                              loại nước Diêu Bồ Na, tại nước Tăng Già Xá có nước                              Thạch mật. Có những nhà quyền quí sai người đi lấy                              các thứ nước ấy, trên đường về nhà, nghỉ ở dọc                              đường, nếu Tỉ-kheo vì khát nước bức bách, dấy tâm                              trộm cắp rờ vào nước ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu                              rót nước ấy vào bình của mình thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu rót vừa dứt mà đủ số quy định thì phạm tội                              Ba La Di.                              Nếu lúc đang rót                              mà sanh tâm hối hận, sợ phạm tội nặng, bèn đổ nước                              vào bình trở lại thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Có những hàng quí                              tộc đi chơi ở hoa viên, bèn xây cái hồ, pha dầu thơm                              vào nước, rồi có Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm, lấy nước                              ấy, nhưng nước không đáng giá tiền, thì tính theo                              thời giá dầu thơm (pha vào nước) mà quy định mức                              phạm tội.                              Ðó gọi là các thứ                              nước.                              4- Vật ở trong                              nước: Ðó là các thứ sinh trong nước như: Ưu bát la,                              Bát đàm ma, Câu vật đầu, Phân đà lợi, Tu kiền đề, rễ                              sen.v.v.. và các vật sinh ra trong nước khác, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, đụng chạm vào các vật sinh                              trong nước này thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu làm lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di. (246b) Nếu                              chỉ lấy một hoa mà trị giá đủ số quy định, cũng phạm                              tội Ba La Di.                              Nếu chưa đủ số                              quy định thì mỗi hoa phạm mỗi tội Thâu Lan Giá.                              Nhưng hái hoa để                              trên đất thì chưa phạm tội Ba La Di. Hoặc vì bó hoa                              lớn nặng không dỡ lên nổi, dù kéo đi hơi xa cũng                              không phạm Ba La Di. Nhưng nếu đã dỡ lên khỏi đất,                              thì phạm tội Ba La Di. Kể cả các vật sinh trong nước                              cũng như thế.                              Nếu các nhà quyền                              quí làm các loại hoa bằng vàng bạc và các loại                              thuyền có hình các giống chim như le le, nhạn, uyên                              ương, để ở hồ tắm, khu giải trí, mà Tỉ-kheo dấy tâm                              lấy trộm, đụng vào các vật đó, thì phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Hoặc có người đem                              các vật như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san                              hô, hổ phách, ngọc trai, xích châu và tám loại khác                              cất giấu dưới nước mà Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, chạm                              vào các vật ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                               Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              vật ở trong nước.                              5- Thuyền: Thuyền                              có các loại như: Thuyền Tỳ câu la, thuyền Câu ha                              tra, thuyền Bạt cù lê, thuyền Tỳ thi già, thuyền mặt                              ngựa, thuyền mặt voi, thuyền mặt dê, thuyền mặt cá,                              hoặc một tầng cho đến bảy tầng, hoặc có vách ngăn,                              hoặc không có vách ngăn, hoặc dùng chở voi, hoặc                              dùng chở ngựa, hoặc dùng chở của cải, hoặc chở gạch                              ngói, hoặc chở da, hoặc chở kim loại, cho đến những                              cái bè chở liếp. Nếu những thuyền bè ấy buộc tại một                              chỗ mà Tỉ-kheo sinh tâm trộm cắp chạm vào chúng, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu cắt dây buộc                              thuyền mà chưa dời khỏi chỗ cũ, thì phạm tội Thâu                              Lan Giá. Hoặc đã đời khỏi chỗ cũ mà chưa cắt dây                              buộc, cũng phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu đã cắt dây                              buộc và rời khỏi chỗ cũ thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu ý muốn trộm                              thuyền, không định trộm vật, nhưng sợ người ta biết,                              bèn lấy cả vật mang đi, thì dù rời khỏi chỗ cũ cũng                              chưa phạm Ba La Di.                              Nhưng nếu bỏ vật                              lại, chỉ lấy thuyền, thì rời khỏi chỗ cũ, liền phạm                              tội Ba La Di.                              Nếu có ý định                              trộm vật, không trộm thuyền, mà sợ người ta phát                              giác, nên mang cả thuyền đi thì chưa phạm Ba La Di.                              Nhưng bỏ thuyền                              lại lấy vật mang đi, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu muốn lấy trộm                              cả thuyền và vật, thì khi thuyền rời khỏi chỗ cũ                              liền phạm Ba La Di.                              Nếu muốn bỏ vật                              xuống đáy sông để lấy trộm thì lúc vật chìm khuất,                              phạm Ba La Di.                              Nếu có người buộc                              thuyền bên bờ sông, lên ngồi nghỉ một chỗ khuất, có                              Tỉ-kheo định lấy trộm thuyền, bấy giờ có người khác                              nói với chủ thuyền: "Có người xuất gia muốn lấy trộm                              thuyền của ông đấy". Khi ấy chủ thuyền hỏi: "Người                              xuất gia ấy theo đạo nào?"                              Ðáp: "Sa môn                              Thích Tử".                              Chủ thuyền nói:                              "Khỏi lo, Sa môn Thích tử không lấy của không cho".                              Nhưng lúc ấy thân                              Tỉ-kheo đã chạm đến thuyền, người kia lại nói (246c)                              với chủ thuyền: "Thầy Tỉ-kheo kia đã lấy thuyền của                              ông rồi". Chủ thuyền liền sanh nghi: Lẽ nào vị                              Tỉ-kheo kia lại muốn lấy trộm thuyền của ta sao?,                              bèn hỏi: "Tôn giả định làm gì đấy?"Lúc ấy Tỉ-kheo im                              lặng, không đáp liền dùng sào chèo thuyền đi. Chủ                              thuyền liền đuổi theo gọi: "Tôn giả! Thuyền ấy là                              thuyền của vua, của đại thần, của Bà la môn, trưởng                              giả cư sĩ, là thuyền để làm phước, thuyền để chở                              người". Lại hăm dọa Tỉ-kheo, nói: "Quân tệ ác, nếu                              ngươi lấy thuyền ta đi, thì ta sẽ trừng trị ngươi                              thích đáng". Thầy Tỉ-kheo ấy tuy chèo thuyền đi xa,                              nhưng nếu chủ thuyền không nghĩ là thuyền đã mất, và                              Tỉ-kheo cũng không nghĩ là đã được, thì chưa phạm                              tội Ba La Di. Trái lại nếu chủ thuyền nghĩ là thuyền                              đã mất và Tỉ-kheo nghĩ là đã được, thì phạm tội Ba                              La Di.                              Nếu chủ thuyền                              buộc thuyền bên bờ sông, rồi có khách Tỉ-kheo đến                              nói với chủ thuyền: "Lão trượng (trường thọ) chở                              giúp tôi đi". Chủ thuyền đáp: "Chỉ có một người mà                              tôi chở thế nào được!".Tỉ-kheo lại nói: "Lão trượng,                              giờ ăn của tôi đã đến, chớ làm cho tôi mất bữa ăn.                              Nay ông chở tôi tức là cho tôi ăn, là bố thí niềm                              vui cho tôi. Nay tôi với ông nguyện đời này đời sau                              giúp đỡ lẫn nhau". Chủ thuyền lại nói: "Ông không có                              đồng xu nào, thì làm sao muốn giúp đỡ người ta? Chân                              ông như con quạ đói, không đậu nhất định chỗ nào,                              thì ai sẽ giúp ông?"Tỉ-kheo bèn hạ giọng khẩn cầu.                              Chủ thuyền lại hỏi: "Tôi tự độ (giúp mình) được. Tôn                              giả giờ đây chỉ có một mình, thì bảo chở làm sao?"                              Tỉ-kheo đáp: "Lão trượng! Ông chỉ cần cầm lái, để                              tôi chèo cho". Chủ thuyền bèn đồng ý, liền bảo                              Tỉ-kheo lên thuyền. Khi đến giữa sông, thầy Tỉ-kheo                              bèn cầm mái chèo đánh chủ thuyền, mắng: "Quân tệ ác,                              dám hủy nhục Sa môn Thích Tử!". Mắng rồi lại đánh                              chủ thuyền, làm cho tay chân bị thương tích trầm                              trọng, đoạn đem vứt xuống nước, thì phạm tội Thâu                              Lan Giá.                              Nếu chủ thuyền                              chết, mà trước đó Tỉ-kheo có tâm giết hại, thì phạm                              tội Ba La Di.                              Nếu trước không                              có tâm sát hại, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Lúc ấy,                              nếu Tỉ-kheo lấy trộm thuyền của Y, hoặc lấy trộm                              hành lý, mà đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu chưa đủ số                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu Tỉ-kheo có ác                              tâm nhận chìm thuyền của Y, hoặc phá hủy, hoặc thả                              trôi đi, vì làm hư hỏng, mất mát vật của người khác                              nên phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Có người muốn tạo                              phước nên dùng thuyền chở người, nếu Tỉ-kheo tự chèo                              thuyền ấy qua sông, thì phải buộc thuyền vào bờ để                              người sau còn đi nữa; nếu Tỉ-kheo lấy trộm thuyền                              hoặc hành trang của họ mà đủ số quy định thì phạm                              tội Ba La Di.                              Nếu nhận chìm                              trong nước, hoặc phá hỏng, hoặc thả cho trôi đi, thì                              phạm (247a) tội Việt Tỳ Ni. Tỉ-kheo nếu chèo thuyền                              đến bờ bên kia, thì phải buộc thuyền vào bờ ở chỗ                              trống trải để người sau còn sử dụng, không được buộc                              thuyền ở chỗ khuất.                              Ðó gọi là Thuyền.                              6- Vật ở trên                              thuyền: Các vật ở trên thuyền như vàng, bạc, trân                              châu, tiền của, hổ phách, lưu ly, ngọc trai, san hô,                              xa cừ, xích châu, kiếp bối, cho đến tất cả y phục,                              ngũ cốc và tám thứ vật, hoặc được che phủ, hoặc                              không che phủ mà Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm rờ vào các                              vật ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động các                              vật ấy thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              7- Xe: Hoặc xe                              hành khách, hoặc xe chở hàng, hoặc xe ba gác, hoặc                              xe xích lô, cho đến các loại xe trẻ con chơi, đó gọi                              là xe.                              Nếu Tỉ-kheo lấy                              trộm xe hai bánh, đẩy tới trước mà đuôi xe qua khỏi                              đầu xe, đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di. Hoặc                              đẩy lui mà đầu xe qua khỏi đuôi xe, thì phạm tội Ba                              La Di. Hoặc đẩy sang hai bên mà bánh trái qua khỏi                              bánh phải hay bánh phải qua khỏi bánh trái, cũng                              phạm tội Ba La Di. Hoặc Tỉ-kheo đập phá xe ấy, rồi                              lấy trộm từng khúc gỗ, đủ số quy định, thì phạm tội                              Ba La Di. Chưa đủ số quy định thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Hoặc xe nhỏ có thể mang đi, nếu chạm đến thì                              phạm tội Việt tỳ ni. Nếu di động nó thì phạm tội                              Thâu lan giá. Nếu dời khỏi chỗ cũ, đủ số quy định,                              thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là các                              loại xe.                              8- Vật ở trên xe:                              Hoặc da sư tử dùng để che, hoặc da cọp, hoặc hoàng                              khâm bà la (?) và các vật dùng để che khác, tất cả                              các vật dùng để lót và tất cả các vật dùng để trang                              trí xe. Ðó gọi là các vật ở trên xe.                              - Tất cả những                              vật để trong xe: Ðó là: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã                              não, trân châu, ngọc trai, san hô, hổ phách, xích                              bảo.v.v..., y phục, ẩm thực và tám thứ vật, hoặc                              được che kín, hoặc không được che kín, nếu Tỉ-kheo                              dùng tâm trộm cắp sờ vào những vật ấy thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Nếu di động chúng thì phạm tội Thâu Lan                              Giá. Nếu dời khỏi chỗ cũ, đủ số quy định thì phạm                              tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              vật để trong xe.                              9- Loài vật bốn                              chân: Ðó là voi, ngựa, lạc đà, bò, lừa, la, dê, cả                              đến chuột, chó sói.v.v... Nếu Tỉ-kheo muốn ăn trộm                              voi, dắt nó đi, khi nó đã dỡ lên từ một chân cho đến                              ba chân, thì phạm tội Thâu Lan Giá. Khi nó đã dỡ lên                              cả bốn chân, rời khỏi chỗ cũ, đủ số quy định thì                              phạm tội Ba La Di. Kể cả ngựa, lạc đà cho đến dê                              cũng như vậy. Nếu con vật ấy nhỏ có thể vác đi được                              thì khi chạm vào nó phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu di động                              nó phạm tội Thâu Lan Giá, nếu rời khỏi chỗ cũ, đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di. Ðó gọi là các con                              vật bốn chân.                              10- Những vật                              dụng ở trên loài bốn chân: Ðó là các dụng cụ dùng để                              trang bị cho voi, kể cả các dụng cụ trang bị cho                              chuột, chó sói và tám loài vật khác, hoặc được che                              kín, hoặc không che kín; nếu Tỉ-kheo dùng tâm trộm                              cắp sờ vào các vật đó, thì phạm tội Việt Tỳ Ni; nếu                              di động chúng, thì phạm tội Thâu Lan Giá. (247b);                              nếu dời khỏi chỗ cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba                              La Di. Ðó gọi là những vật dụng ở trên loài bốn                              chân.                              11- Loài vật hai                              chân: Ðó là người và chim.v.v.. Nếu Tỉ-kheo trộm                              người (thuộc quyền quản lý) của người khác, hoặc                              quyến rũ di theo, hoặc dùng dao gậy bức hiếp, khi                              người ấy dở lên một chân thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dở cả hai chân thì phạm tội Ba La Di. Nếu người                              ấy nhỏ có thể cõng, vác đi, mà chạm đến họ thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni; nếu di động họ thì phạm tội Thâu Lan                              Giá; nếu dời khỏi chỗ cũ, đủ số quy định, thì phạm                              tội Ba La Di. Kể cả các loài chim cũng như thế. Ðó                              gọi là loài vật hai chân.                              12- Những vật                              dụng ở trên loài hai chân: Ðó là những vật trang                              điểm của phụ nữ, những vật trang điểm của nam giới,                              cho đến những thứ trang điểm trên mình chim oanh vũ.                              - Những vật trang                              điểm của phụ nữ: Ðó là xoa, xuyến, y phục.v.v...                              - Những vật trang                              điểm của nam giới: Như áo, mão ngọc, anh lạc.v.v...                              Cho đến những thứ                              trang điểm trên chim oanh vũ như vàng, ngọc, lục lạc                              đeo vào cổ, chân của chúng, và tám thứ vật khác,                              hoặc được che kín, hoặc không che kín. Nếu Tỉ-kheo                              khởi tâm trộm cắp chạm vào các vật trên loài hai                              chân ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Nếu di động chúng,                              thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu rời khỏi chỗ cũ, đủ                              số quy định thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              vật dụng ở trên loài hai chân.                              13- Loài vật                              không chân: Ðó là rắn, trăn, hoặc ăn hoa, ăn trái,                              ăn thịt, hay chỉ thở bằng không khí, hoặc rắn được                              nhốt trong lọ hay trong lồng.                              Có một Tỉ-kheo                              vốn là người nuôi rắn, về sau xuất gia. Vị này muốn                              bắt trộm con rắn của một người khác, nhưng sợ người                              chủ hay biết, liền xách cả cái lồng đi, thì chưa                              phạm tội Ba La Di. Nhưng nếu bắt rắn, bỏ lồng lại,                              đủ số quy định thì phạm tội Ba La Di. Nhưng nếu chỉ                              có ý trộm lồng, không trộm rắn, mà vì sợ chủ biết,                              nên lấy luôn cả rắn thì chưa phạm tội Ba La Di. Nếu                              bỏ rắn lấy lồng, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di. Nếu định trộm cả lồng và rắn, thì khi xách đi                              khỏi chỗ cũ, đủ số quy định, phạm tội Ba La Di. Nếu                              bắt trộm con rắn trong lọ mà đuôi rắn chưa ra khỏi                              miệng lọ thì chưa phạm Ba La Di. Nếu cả đầu và đuôi                              đều ra khỏi lọ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di.                              Nếu tức giận,                              khiển trách kẻ ấy, mắng rằng: "Quân ác độc, vì sao                              lại dùng lồng để nhốt chúng sinh!"Liền mở lồng để                              cho rắn bò ra, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp chạm vào loài không chân, thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động                              chúng, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              loài vật không chân.                              14- Những đồ vật                              ở trên loài không chân: Ðó là vàng, bạc, trân châu,                              xà cừ, hổ phách, san hô, ngọc trai, lưu ly, xích                              châu cho đến tám loài vật, hoặc được che kín, hoặc                              không che kín, vì người ta sợ loài vật không chân                              này nên không dám lấy (vật trên nó). Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp chạm vào những đồ vật ở trên loài không                              chân này thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động các                              vật ấy thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định (247c) thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              vật ở trên loài không chân.                              15- Vật không                              trung: Ðó là cây Am la, cây Chim bặc, cây Diêm phù,                              cây Da tử, cây Chỉ ba la, cây Long hoa, cây Cát                              tường, quả, cho đến tất cả cây có hoa trái. Nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp lấy trộm các cây đó, khi                              lấy một cây mà đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di.                              Nếu chưa đủ số                              quy định, tùy theo mức độ, như nhổ các cây con thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu nhổ cây con                              để lại một chỗ thì chưa phạm tội Ba La Di.                              Nếu mang đi khỏi                              khu đất ấy, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu cây nặng, kéo                              đi mà chưa rời khu đất dù đã đi xa thì chưa phạm tội                              Ba La Di.                              Nếu đem đi khỏi                              khu đất thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp đụng vào vật trên hư không thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là vật                              không trung.                              16- Vật ở trên                              không trung: Ðó là quả Am la (xoài) cho đến quả cát                              tường. Nếu Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm các loại trái                              cây ấy để ăn, nếu ăn một trái mà đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu chưa đủ, thì                              cứ mỗi miếng phạm mỗi tội Thâu Lan Giá.                              Nếu Tỉ-kheo đụng                              vào cây, trái rơi xuống đất, thì chưa phạm Ba La Di.                              Nếu nhặt trái                              mang đi, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu hai người đi                              hái trộm quả, một người lên cây hái quả ném xuống,                              một người dưới đất nhặt quả, thì chưa phạm tội Ba La                              Di.                               Nếu người trên                              cây đã xuống tới đất, mang quả đi, đủ số quy định,                              thì phạm tội Ba La Di. Lấy trộm tất cả các loại quả                              khác cũng như thế.                              Nếu tại các nơi                              như Phật đản sinh, đắc đạo, chuyển pháp luân, chỗ                              tôn giả A Nan mở đại hội, La Hầu La mở đại hội, Ban                              Giá Vu Sắt mở đại hội, có trồng các hàng cây, và                              trên các cây được trang trí các thứ châu báu và tám                              loại vật, hoặc được che kín, hoặc không che kín. Nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp sờ vào các vật báu đó, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là những                              vật ở trên không trung.                              Trong mười sáu                              vật đã kể trên, nếu Tỉ-kheo dùng tâm trộm cắp đụng                              vào chúng thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              - Lại có                              mười ba trường hợp sai biệt.                              Ðó là:                              1- Vật sai biệt.                               1- Vật sai biệt:                              Vật gồm có tám loại:                              a- Thuốc (248a)                              dùng đúng thời.  Ðó gọi là những                              vật sai biệt.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp chạm vào các vật ấy thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.                               Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              2- Xứ sai biệt:                              Ðó là đất và những vật trong đất, nước và những vật                              trong nước, thuyền và những vật trên thuyền, xe và                              những vật trên xe, loài bốn chân và những đồ vật                              trên loài bốn chân, loài hai chân và những đồ vật                              trên loài hai chân, loài không chân và những đồ vật                              trên loài không chân, không trung và những vật trên                              không trung.                              Ðó gọi là xứ sai                              biệt.                              Nếu Tỉ-kheo khởi                              tâm trộm cắp sờ vào những vật đó, thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              3- Bất định sai                              biệt: Có trường hợp biết mà nói dối, phạm tội Ba Dạ                              Ðề. Có trường hợp không biết mà nói dối, phạm tội Ba                              Dạ Ðề. Hoặc biết mà nói dối phạm tội Ba La Di. Hoặc                              biết mà nói dối phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa. Hoặc                              biết mà nói dối phạm tội Thâu Lan Giá. Hoặc biết mà                              nói dối phạm tội Việt Tỳ Ni.                              - Biết mà nói dối                              phạm tội Ba La Di: Nếu Tỉ-kheo không thật sự đạt                              được pháp siêu việt hơn người mà nói: "Tôi được A La                              Hán", thì đó là biết mà nói dối, không phải phạm tội                              Ba Dạ Ðề mà là phạm tội Ba La Di.                              - Biết mà nói dối                              phạm tội Tăng Già Bà Thi Sa: Nếu Tỉ-kheo vô cớ vu                              khống Tỉ-kheo khác phạm tội Ba La Di, thì đó là biết                              mà nói dối, không phải phạm tội Ba Dạ Ðề mà là phạm                              tội Tăng Già Bà Thi Sa.                              - Biết mà nói dối                              phạm tội Thâu Lan Giá: Nếu Tỉ-kheo nói: "Tôi là bậc                              A La Hán", thì đó là biết mà nói dối, nên không phải                              phạm tội Ba Dạ Ðề mà là phạm tội Thâu Lan Giá.                              - Biết mà nói dối                              phạm tội Việt Tỳ Ni: Nếu Tỉ-kheo tự nói: "Tôi là A                              La Hán chăng?"Ðó là biết mà nói dối, không phải phạm                              tội Ba Dạ Ðề, mà phạm tội Việt Tỳ Ni.                              - Biết mà nói                              dối, phạm Ba Dạ Ðề: Trừ các việc trên, ngoài ra tất                              cả những lời nói dối đều thuộc về biết mà nói dối,                              phạm tội Ba Dạ Ðề.                              Lại có các trường                              hợp: Tàn hại cây cỏ, phạm Ba La Di. Có trường hợp                              tàn hại cây cỏ phạm Thâu Lan Giá. Có trường hợp tàn                              hại cây cỏ phạm Ba Dạ Ðề.                              - Trường hợp tàn                              hại cây cỏ phạm Ba La Di: Như cây cối hoa quả có chủ                              giữ gìn mà Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp định lấy rồi làm                              tàn hại chúng, nếu đủ số quy định, thì không phải                              phạm tội Ba Dạ Ðề mà là phạm tội Ba La Di.                              - Tàn hại cây cỏ                              phạm Thâu Lan Giá: Nếu cây cối hoa quả có chủ giữ                              gìn mà Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, lấy trộm chúng,                              chưa đủ số quy định thì không phải tội Ba Dạ Ðề mà                              là tội Thâu Lan Giá.                              - Tàn hại cây cỏ                              phạm Ba Dạ Ðề: Tàn hại (248b) tất cả cây cỏ đều phạm                              tội Ba Dạ Ðề.                              Có trường hợp ăn                              phi thời phạm Ba La Di. Có trường hợp ăn phi thời                              phạm Thâu Lan Giá. Có trường hợp ăn phi thời phạm Ba                              Dạ Ðề.                              - Ăn phi thời                              (không đúng giờ) phạm Ba La Di: Nếu Tỉ-kheo dấy tâm                              trộm cắp lấy trộm thức ăn của người khác rồi ăn phi                              thời, nếu đủ số quy định thì không phải phạm Ba Dạ                              Ðề mà là phạm Ba La Di.                              - Ăn phi thời                              phạm Thâu Lan Giá: Nếu Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp lấy                              thức ăn của người khác ăn lúc phi thời mà chưa đủ số                              quy định thì không phải phạm Ba Dạ Ðề mà là phạm                              Thâu Lan Giá.                              - Ăn phi thời                              phạm Ba Dạ Ðề: Nếu Tỉ-kheo nhận thức ăn hợp pháp                              nhưng ăn lúc phi thời, thì phạm Ba Dạ Ðề.                              Không phải uống                              rượu chỉ phạm Ba Dạ Ðề, mà có trường hợp uống rượu                              phạm Ba La Di. Có trường hợp uống rượu phạm Thâu Lan                              Giá. Có trường hợp uống rượu phạm Ba Dạ Ðề.                               - Trường hợp uống                              rượu phạm Ba La Di: Nếu Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp,                              lấy rượu của người khác uống, đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                              - Trường hợp uống                              rượu phạm Thâu Lan Giá: Nếu Tỉ-kheo khởi tâm trộm                              cắp lấy rượu của người khác uống, chưa đủ số quy                              định, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              - Trường hợp uống                              rượu phạm Ba Dạ Ðề: Nếu Tỉ-kheo nhận được rượu hợp                              pháp mà uống thì phạm tội Ba Dạ Ðề.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp xúc chạm vào các vật bất định sai biệt                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là các vật                              bất định sai biệt.                              4- Tường vách sai                              biệt: Chuồng voi, chuồng ngựa, chuồng lạc đà, chuồng                              lừa, bò, dê, vườn rau, vườn cải, vườn dưa, vườn                              mía.v.v... Nếu Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp bắt voi của                              người ta, voi dở lên một chân cho đến bốn chân, ra                              tới cửa chuồng, nhưng thân nó chưa ra khỏi cửa thì                              phạm tội Thâu Lan Giá, khi thân ra khỏi cửa thì phạm                              tội Ba La Di. Kể cả các con vật khác kia cũng thế.                              Nếu Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp bắt dê của người ta, dê                              sợ bỏ chạy, bèn nổi giận đánh chết thì phạm tội Ba                              Dạ Ðề.                              Nếu Tỉ-kheo cắt                              thịt nó ném ra ngoài hàng rào thì chưa phạm Ba La                              Di, nhưng khi mình ra khỏi hàng rào, rồi mang thịt                              rời khỏi khu vực đó đủ số quy định, thì phạm tội Ba                              La Di.                              Hoặc trở lại                              trong chuồng, ăn thịt, đủ số quy định, thì phạm tội                              Ba La Di.                              Nếu hai Tỉ-kheo                              đi bắt trộm dê, một người ở ngoài rào, một người ở                              trong rào, người ở trong cắt thịt ném ra ngoài rào,                              thì chưa phạm Ba La Di.                              Nếu người ấy ra                              ngoài, mang thịt rời khỏi khu vực đó, đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp đi nhổ cải trộm, nếu nhổ một cây mà đủ                              số quy định, thì phạm tội Ba La Di. Nếu chưa đủ, thì                              khi nhổ, cứ mỗi cây phạm mỗi tội Thâu Lan Giá.                              Nếu nhổ chất lại                              một đống, thì chưa phạm Ba La Di, nhưng khi mang ra                              khỏi vườn thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu nhổ những gốc                              lớn không thể mang đi được, dù kéo đi hơi xa, cũng                              chưa phạm Ba La Di.                              Nếu đã rời khỏi                              đám đất, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di. Tất                              cả các thứ rau cho đến dưa cũng như thế.                              Nếu Tỉ-kheo khởi                              tâm trộm cắp, chặt trộm mía của người, ăn đúng thời,                              (248c) dù một cây mà đủ số quy định, thì phạm tội Ba                              La Di.                               Nếu chưa đủ số                              quy định, thì cứ mỗi cây phạm mỗi tội Thâu Lan Giá.                              Nếu chặt vứt ra                              ngoài hàng rào thì chưa phạm Ba La Di, mà phạm Ba Dạ                              Ðề.                              Nếu ra khỏi vườn,                              mang đi, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo có                              tâm trộm cắp, lại xảo trá lấy mía buộc dưới gót chân                              kéo đi, dù đi hơi xa, vẫn chưa phạm Ba La Di.                              Nếu rời khỏi khu                              đất, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo ở                              trong vườn chặt mía vứt ra cho Tỉ-kheo ở ngoài vườn,                              thì chưa phạm Ba La Di.                              Nếu người ấy ra                              rồi vác mía rời khỏi khu vườn, đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                               Nếu lúc Tỉ-kheo                              vác mía đi, tuy chạm vào cây và lá mía, nhưng chưa                              rời khỏi vườn, thì chưa phạm Ba La Di.                              Sau khi đã rời                              khỏi vườn, thì phạm Ba La Di.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, chạm vào các vật kể trên,                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               5- Lồng sai biệt:                              Ðó là các giống chim như Oanh vũ.v.v... các giống                              thú như Sư tử.v.v...                              Nếu Tỉ-kheo khởi                              tâm trộm cắp, khi lấy trộm chỉ muốn trộm chim không                              muốn trộm lồng, nhưng sợ người ta phát giác nên xách                              cả lồng đi, thì chưa phạm Ba La Di.                              Nếu bỏ lồng lại                              bắt chim đi, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu muốn trộm lồng, không trộm chim, nhưng sợ người                              ta biết nên đem cả chim đi, thì chưa phạm Ba La Di.                              Nếu thả chim ra,                              xách lồng đi, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di.                               Nếu muốn lấy trộm                              cả lồng và chim đi, khi mang đi khỏi chỗ cũ, đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp, khi tay còn đang bắt chim trong lồng,                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi một chân chim                              ra khỏi lồng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi hai chân ra                              khỏi lồng mà cánh, đuôi chưa ra khỏi miệng lồng thì                              chưa phạm tội Ba La Di.                              Khi hoàn toàn rời                              khỏi lồng, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo bắt                              trộm Sư tử mà tay còn ở trong chuồng thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu kéo ra được                              một chân (sư tử) thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nhưng khi bốn                              chân ra khỏi chuồng mà đuôi chưa ra khỏi, thì chưa                              phạm Ba La Di.                              Nếu hoàn toàn ra                              khỏi, thì phạm tội Ba La Di. Tất cả các loài thú                              khác cũng như vậy.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp chạm vào các vật ở trong                              lồng sai biệt như vậy, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               6- Ký gởi sai                              biệt: Nếu Hòa thượng, thầy, đệ tử bạn hữu gởi vật                              nhờ ai đó giữ giúp, như bát, y và các vật khác, mà                              người nhận suy nghĩ: "Người gởi đã đi xa, mà vật gởi                              không biết thứ gì, vậy vật này ta phải xử dụng", bèn                              sinh tâm trộm cắp lấy vật đó, từ dưới đất để lên đầu                              gối, từ đầu gối đặt xuống đất, từ vai trái đặt lên                              vai phải, cho đến từ đầu để lên vai, mỗi mỗi sự di                              động, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo nhận                              gởi gấm rồi, bèn đi qua sông, hoặc lội qua ao, hoặc                              qua chỗ nước xoáy, hoặc gặp mưa, sợ ướt (249a) nên                              mở ra xem, thấy y ấy đẹp, liền suy nghĩ: "Người gởi                              ấy đã đi xa, người hiện tiền không biết, vật này ta                              nên sử dụng". Bèn sinh tâm trộm cắp lấy vật ấy, từ                              đất để lên đầu gối, từ đầu gối đặt xuống đất, từ vai                              trái đặt qua vai phải, hoặc từ vai để lên đầu, mỗi                              mỗi sự di động, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di.                               Vị Tỉ-kheo nhận                              ký gởi đang đi trên đường, thấy vị Tỉ-kheo khác từ                              chỗ ở trước kia đến, liền hỏi Tỉ-kheo ấy: "Trưởng                              lão từ nơi nào đến vậy?"                              Ðáp: "Từ chỗ nọ                              đến".                              Hỏi: "Biết vị                              Tỉ-kheo kia chăng?"                              Ðáp: "Biết".                              Liền hỏi: "Vị                              Tỉ-kheo ấy có bình an không?"                              Ðáp: "Chết"hoặc                              "Ðã nhập Niết bàn".                              Nếu thế, thì các                              y phục và vật dụng ấy phải thuộc về hiện tiền Tăng.                              Nhưng nếu vị Tỉ-kheo nhận vật ký gởi biết pháp mà                              gian trá, liền suy nghĩ: "Tội gì mà ta chia cho vị                              Tỉ-kheo này", liền im lặng bỏ vị Tỉ-kheo ấy, đi tới                              chỗ khuất không thể nghe thấy, rồi nói: "Vị Tỉ-kheo                              mỗ giáp kia đã quá cố, đã nhập Niết bàn. Các y bát                              và vật dụng khác của vị ấy nên chia cho Tăng chúng                              hiện tiền, nhưng hiện tiền không có Tăng chúng, nên                              tôi phải nhận lấy". Vị Tỉ-kheo này dùng tâm gian trá                              để độc chiếm các vật đó, nên phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Hoặc giả, vị                              Tỉ-kheo nhận đồ ký gởi muốn đi thuyền qua sông, bỗng                              có vị Tỉ-kheo khác từ bờ kia đi qua. Vị này hỏi vị                              ấy: "Thầy từ đâu đến?"                              Ðáp: "Từ chỗ ấy                              đến".                              Lại hỏi: "Có biết                              vị Tỉ-kheo kia chăng?"                               Ðáp: "Biết".                              Lại hỏi: "Vị                              Tỉ-kheo ấy bình an chăng?"                               Ðáp: "Ðã chết, đã                              nhập Niết bàn".                              Bấy giờ, y phục                              và vật dụng (của Tỉ-kheo quá cố) phải thuộc về Tăng                              chúng hiện tiền, nhưng thầy Tỉ-kheo này biết pháp mà                              gian trá, làm yết ma để độc chiếm y vật, thì phạm                              tội Việt Tỳ Ni.                              Hoặc vị Tỉ-kheo                              nhận đồ ký gởi đi thuyền đến giữa sông thì gặp một                              Tỉ-kheo khác từ bên kia đi lại, thầy liền hỏi:                              "Trưởng lão từ đâu đến?".v.v.. cho đến dùng tâm yết                              ma gian trá thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Hoặc giả thầy                              Tỉ-kheo nhận đồ ký gởi đến bờ bên kia, xuống thuyền,                              liền gặp một Tỉ-kheo khác sắp lên thuyền.v.v.. cho                              đến dùng tâm yết ma gian trá thì phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Hoặc Tỉ-kheo nhận                              đồ ký gởi đã lên khỏi bờ, gặp một Tỉ-kheo khác từ                              bên kia đi lại, liền hỏi: "Trưởng lão từ đâu                              đến?"Ðáp: "Từ nơi ấy đến".v.v... cho đến dùng tâm                              gian trá làm phép yết ma thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Thầy Tỉ-kheo ấy                              hoặc suy nghĩ: "Hiện tại thấy có nhiều người cùng                              tên, vậy phải làm cách nào đến được nơi ấy?"Ðến nơi                              ấy rồi, liền hỏi vị Tỉ-kheo kia có được bình an                              không thì được biết, hoặc đã chết, hoặc đã nhập Niết                              bàn. Khi ấy y vật đương nhiên thuộc về Tăng chúng                              hiện tiền. Thầy Tỉ-kheo này tuy biết pháp, nhưng                              gian trá suy nghĩ: "Y ấy vì sao phải chia cho nhiều                              người?" Liền gọi riêng (249b) thầy Tỉ-kheo quen biết                              ra ngoài giới trường, bảo: "Thầy Tỉ-kheo mỗ giáp đã                              quá cố, đã nhập Niết bàn, y bát và các tạp vật nên                              chia cho Tăng hiện tiền, giờ đây hai chúng ta là                              người hiện diện, nên nhận lấy". Cách nhận ấy là phép                              yết ma gian trá, nên phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu Tỉ-kheo này                              suy nghĩ: "Trước đây (vị ấy) bảo ta tặng y này cho                              tháp, cho Tăng, mà nay thầy đã mất, đã nhập Niết                              bàn", liền mang vật ấy trở về lại chỗ cũ (trú xứ của                              Tỉ-kheo đã mất), thì không phạm tội. Ðó gọi là ký                              gởi sai biệt.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp chạm vào vật ký gởi thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni. Cho đến dời khỏi chỗ cũ, đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               7- Tạp vật sai                              biệt: Như người chăn nuôi, chăn các loài súc vật                              như: voi, ngựa, bò, lạc đà, lừa, dê.v.v...                              - Voi: Voi có                              nhiều thứ, như voi tốt, thuần dưỡng, đẹp đẽ, khỏe                              mạnh, chạy nhanh.                              Nếu Tỉ-kheo khởi                              tâm trộm cắp bắt lấy voi, leo lên cưỡi rồi thúc voi                              về một phương nào đó như phương Ðông, nhưng voi nổi                              khùng chạy về phương Nam, Tây, Bắc thì chưa phạm Ba                              La Di. Hoặc muốn dắt voi về phương Nam, nhưng voi                              phát khùng chạy về phương Tây, Bắc, Ðông, thì chưa                              phạm Ba La Di; hoặc về phương Tây, Bắc cũng thế.                              Nhưng nếu muốn                              dắt trộm voi về phương Ðông mà voi đi về phương                              Ðông, thì phạm Ba La Di; phương Nam, Tây, Bắc cũng                              thế.                              Nếu lúc đầu không                              định phương hướng, tùy nơi mà đi, thì khi voi dở lên                              đủ bốn chân, phạm tội Ba La Di.                              - Ngựa: Ngựa có                              nhiều loại, có loài thuần dưỡng, sắc đẹp, chạy                              nhanh.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp, bắt con ngựa ấy, rồi leo lên ngựa thúc                              về phương Ðông, nhưng ngựa nổi cuồng chạy về phương                              Nam, Tây, Bắc thì chưa phạm Ba La Di.                              Cũng vậy, các                              phương Nam, Tây, Bắc kia cũng thế,ngựa tùy phương đi                              như trên đã nói. Nếu không định phương hướng, tùy                              chỗ mà đi, thì khi ngựa đã dở lên cả bốn chân, phạm                              Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo trộm                              con ngựa tốt, cưỡi chạy, rồi chủ ngựa hay được, lên                              ngựa đuổi theo, nhưng chủ chưa cho là đã mất ngựa,                              Tỉ-kheo không nghĩ là mình đã được, thì chưa phạm Ba                              La Di.                              Nếu chủ ngựa nghĩ                              là đã mất ngựa, Tỉ-kheo tưởng là đã được ngựa, thì                              phạm Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp, dùng mồi hoặc cỏ nhử ngựa người ta đem                              đến chỗ không thấy, không ghe được nữa, thì phạm tội                              Ba La Di.                              - Bò: Bò có nhiều                              loại, có loại thuần dưỡng, lông mịn, sắc đẹp, chạy                              nhanh.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp, cầm roi đuổi bò về phương Ðông, phạm                              và không phạm như đã nói trong trường hợp voi. Cho                              đến, nếu chủ bò hay được, đuổi theo, mà chủ không                              nghĩ là đã mất bò, Tỉ-kheo cũng không nghĩ là đã                              được, thì chưa phạm Ba La Di.                              Nhưng nếu chủ bò                              nghĩ là đã mất, Tỉ-kheo nghĩ mình đã được, (249c)                              thì phạm Ba La Di.                              Nếu khởi tâm trộm                              cắp dùng mồi hay cỏ nhử bò người ta dắt đi, hoặc                              dùng dây dài buộc dắt tới chỗ không còn ai trông                              thấy nữa, thì phạm Ba La Di. Trường hợp trộm lạc đà,                              lừa, dê cũng như thế.                              Ðó gọi là tạp vật                              sai biệt.                               Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, chạm vào các vật kể trên                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Cho đến rời khỏi chỗ cũ, đủ                              số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               8- Tràng phan sai                              biệt: Nếu tại các nơi Phật đản sinh, đắc đạo, chuyển                              pháp luân, chỗ A Nan mở đại hội, La Hầu La mở đại                              hội, Ban Giá Vu Sắt mở đại hội, được trang các thứ                              như treo biểu ngữ, che lọng và các thứ linh quí; nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm lấy trộm tràng phan, mở được một đầu                              dây thì chưa phạm Ba La Di.                              Khi mở cả hai                              đầu, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp nói gạt là mình đi treo tràng phan các                              nơi thì chưa phạm Ba La Di.                              Khi lấy rồi mang                              đi luôn, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               Nếu Tỉ-kheo lấy                              trộm vòng hoa, mới mở một đầu thì chưa phạm Ba La                              Di.                              Khi mở cả hai đầu                              xong, đủ số quy định, thì phạm Ba La Di.                               Nếu hai Tỉ-kheo                              cùng đi lấy trộm tràng phan trong chỗ tối không thấy                              nhau, mỗi người mở một đầu cuốn lại, gặp nhau ở chỗ                              giữa, liền hỏi: "Ông là ai?"Người nghe hỏi hoảng sợ                              bỏ tràng phan mà chạy, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu hai Tỉ-kheo                              đụng độ, hỏi nhau, mỗi người đều nói mình lấy trộm                              tràng phan, rồi lấy mang đi, đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                               Nếu nhiều lá cờ                              có nhiều màu cùng cột một dây nặng nề, mỗi người mở                              một đầu rơi xuống đất, nhưng vì nặng mang không nổi,                              kéo lê đi, tuy xa chỗ cũ, vẫn chưa phạm tội Ba La                              Di.                              Khi đã dở lên                              khỏi đất, cả hai đều phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo này                              suy nghĩ: "Ðây là vật trang trí tháp mà lấy đi, thì                              mang tội nặng. Ta chỉ cần một cái hai màu". Rồi lấy                              cái ấy, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu nghĩ: "Ta chỉ                              cần nửa màu", rồi lấy cái ấy, chưa đủ số quy định,                              thì phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                               Nếu hai Tỉ-kheo                              lấy trộm cờ trong chỗ tối, cả hai không biết nhau,                              mỗi người mở một đầu cuốn lại, đến chỗ giữa gặp                              nhau, bèn hỏi: "Ông là ai?"Rồi hoảng sợ bỏ cờ mà                              chạy, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Một Tỉ-kheo khác                              buổi sáng sớm đi nhiễu tháp, thấy cờ ấy rơi xuống                              đất, liền khởi tâm trộm cắp lấy đi, nếu đủ số quy                              định, thì phạm Ba La Di.                              Có người dùng bảy                              thứ báu trang trí cúng dường cây Bồ đề như: vàng,                              bạc, trân châu, các lá cờ hoa dây vàng, kim tuyến,                              móc vàng, linh treo, ánh vàng rực rỡ cả núi. Nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp, lấy các vật ấy, đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba La Di.                               Lại nữa, các tháp                              của ngoại đạo cũng có các thứ lụa là rực rỡ cúng                              dường. Nếu Tỉ-kheo dùng tâm trộm cắp để lấy, đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu gió thổi làm                              rơi (các vật kia) xuống đất, (mà Tỉ-kheo) biết đó là                              các vật cúng dường của tháp (250a), thì không nên                              lấy. Nếu bị gió thổi bay xa bụi bặm vấy bẩn, mình                              tưởng là vật phấn tảo (vứt bỏ) mà lấy, thì không có                              tội. Hoặc trong Thiên Tự (chùa thờ trời) có các y                              vật, Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp để lấy, đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu (các vật ấy)                              bị gió thổi bay xa, bụi bặm vấy bẩn, mình tưởng là                              đồ bỏ mà lấy, thì không có tội.                              Ðó gọi là tràng                              phan sai biệt.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp chạm vào các thứ tràng phan                              sai biệt ấy thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               9- Tướng sai                              biệt: Nếu có nhà trưởng giả để y phục, chuỗi anh lạc                              bừa bãi chưa thu cất, khi ấy Tỉ-kheo dẫn Sa di đến                              nhà, trông thấy rồi sinh tâm trộm cắp, lấy y vật đó                              bỏ vào trong xách, bảo Sa di mang đi, thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Khi Sa di đem đi                              khỏi phạm vi nhà, thì (Tỉ-kheo) phạm tội Thâu Lan                              Giá.                              Nếu (Tỉ-kheo)                              nghĩ mình đã được, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu khi ấy chủ                              nhân phát hiện, liền hỏi Tỉ-kheo : "Trưởng lão làm                              gì thế?"                               Ðáp: "Lão gia,                              tôi sờ thử đó mà". Thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu Tỉ-kheo bảo                              người thế tục mang đi, thì cũng phạm tội như trên đã                              nói. Như trường hợp dẫn dê lông dài đi cũng thế.                              Nếu Tỉ-kheo vào                              nhà trưởng giả, dê con thấy sắc y của Tỉ-kheo tưởng                              là mẹ nó,nó bèn chạy tới, thì Tỉ-kheo phải đuổi nó                              trở lại, nhược bằng dùng mồi hay cỏ nhử nó chạy                              theo, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                               Khi dẫn nó đi                              chưa khỏi ranh giới, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi ra khỏi ranh                              giới thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu trong lúc thọ                              trai, Tỉ-kheo sinh tâm trộm cắp, bỏ chén, thìa vào                              trong bát mình, rồi bảo đệ tử mang đi thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Khi đệ tử ra khỏi                              ranh giới thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu nghĩ là mình                              đã được, thì phạm tội Ba La Di. Nếu Tỉ-kheo đệ tử                              biết được, liền hỏi: "Trưởng lão làm gì thế?"                              Ðáp: "Ta đùa đấy                              mà", thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu Tỉ-kheo cùng                              với khách buôn đi đường, giữa đường lại gặp một đoàn                              khách buôn từ bên kia đi lại. Rồi hai đoàn cùng nghỉ                              một chỗ. Nửa đêm, Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp, đem xe                              của người này đổi xe của người khác, đem đàn ông của                              người này hoán vị đàn ông của người kia, đem phụ nữ                              của người này hoán vị phụ nữ của người kia, đem trẻ                              con của người này hoán vị trẻ con của người kia,                              muốn hai đoàn khách mang đi lẫn lộn. Khi làm như                              vậy, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Khi họ rời khỏi ranh                              giới chỗ tạm trú, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu nghĩ là mình                              đã được, thì phạm tội Ba La Di.                              Ðó gọi là tướng                              trạng sai biệt của vật.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp, chạm vào các tướng sai                              biệt của vật thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động                              chúng, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              10- Cây cọc sai                              biệt: Các nơi như chỗ Phật đản sinh (250b), chỗ Phật                              thành đạo, chỗ chuyển pháp luân, chỗ A Nan mở đại                              hội, chỗ La Hầu La mở đại hội, chỗ Ban Giá Vu Sắt                              đại hội, có các vật trang trí đẹp đẽ tại các tinh                              xá, các cờ lọng nhiều màu sắc treo trên các cây cọc                              đó đây, các loại châu báu treo trên các cây                              cọc.v.v..., nếu Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp định lấy                              các báu vật trên các cây cọc ấy, đưa tay lấy báu vật                              mà chưa gỡ khỏi dây buộc vào cọc, thì chưa phạm tội                              Ba La Di. Nhưng khi rời khỏi cọc thì phạm tội Ba La                              Di.                              Nếu dây buộc cứng                              chắc, khi lấy báu vật dây buộc rời khỏi cây cọc, thì                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu muốn lấy trộm                              cả cọc, thì khi tay chạm vào sẽ phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu làm lay động                              cây cọc ấy thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu trên cọc treo                              các bình sữa, bình dầu, bình mật, hoặc bát, tơ lụa                              mà Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp lấy bình sữa ấy, thì                              khi dùng tay dở lên, do dây mềm cọc thẳng, nên tuy                              dở, chưa phạm Ba La Di. Khi tất cả rời khỏi cọc, thì                              phạm Ba La Di.                              Nếu dây cứng chắc                              cọc cong, tuy dở chưa phạm Ba La Di.                              Khi tất cả đều                              rời khỏi cọc đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu dây cứng chắc mà cọc lại thẳng, thì khi dở lên                              liền phạm Ba La Di.                              Nếu khoét cho                              lủng bình thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi rót từ bình                              kia qua bình mình thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi ngưng rót, đủ                              số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu khi đang rót                              mà bỗng hối hận, sợ phạm tội nặng, bèn trút lại vào                              trong bình thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Các bình dầu,                              bình mật kia cũng thế.                              Nếu Tỉ-kheo muốn                              lấy trộm bát, khi dùng tay dở lên, do dây mềm cọc                              thẳng, nên dù dở vẫn chưa phạm Ba La Di.                              Khi bát rời khỏi                              cọc thì phạm Ba La Di.                              Nếu dây cứng chắc                              mà cọc cong, thì dù dở vẫn chưa phạm Ba La Di.                               Khi rời khỏi cọc                              thì phạm Ba La Di.                              Nếu dây mềm trụ                              cong, thì dù dở cầm vẫn chưa phạm Ba La Di.                              Khi rời khỏi cọc                              thì phạm Ba La Di.                              Nếu dây cứng                              chắc, cọc thẳng, thì dở lên liền phạm Ba La Di.                              Nếu lấy trộm tơ                              lụa thì cũng giống như trường hợp đã nói ở trên. Lại                              nữa, khi ăn trộm tơ lụa, nếu suy nghĩ: "Ta cần một                              ít lụa", rồi leo lên cọc cuốn lấy lụa thì khi cuốn                              chưa xong chưa phạm Ba La Di.                               Khi đã cắt đứt                              lụa, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Khi Tỉ-kheo cuốn                              lấy lụa, nhưng cuốn chưa xong, liền hối hận, sợ phạm                              tội nặng, bèn để lại chỗ cũ, thì phạm tội Thâu Lan                              Giá.                              Ðó gọi là cây cọc                              sai biệt.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp chạm vào những cây cọc sai                              biệt, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu lay động                              chúng thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              11- Vườn sai                              biệt: Bấy giờ, có một trưởng giả thuộc hàng đại phú,                              có một Tỉ-kheo tên (250c) Câu Lô thường vào ra nhà                              ông. Gia đình ông, cha mẹ anh em thường sống chung                              một nhà, nhưng khi cha mẹ chết thì trong nhà bất                              hòa, người em muốn chia gia tài mà người anh không                              bằng lòng, muốn sống chung cho có tình nghĩa. Người                              em đòi chia gia tài mãi, người anh bất đắc dĩ phải                              đồng ý. Thế rồi họ bàn bạc: "Ai có thể chia được?",                              và cùng nhau nhất trí là chỉ có thầy Câu Lô, vì khi                              cha mẹ còn sống, cúng dường thầy rất trọng hậu,                              trong nhà có gì hay không thầy biết rất rõ. Lúc ấy,                              người em gian manh liền đến Câu Lô lễ bái rồi thưa:                              "Thưa thầy, thầy được cha mẹ tôi tôn trọng, anh em                              tôi kính mến, trong nhà có gì hay không thầy đều                              biết rõ. Khi cha mẹ còn sinh tiền, anh em sống với                              nhau, nay cha mẹ đã qua đời, trong nhà bất hòa, muốn                              chia gia tài, nên tôi đến đây thưa với thầy, sau khi                              ở riêng tôi sẽ cúng dường thầy, và sẽ tự nuôi sống                              với những vật cúng dường còn lại, mong khi chia gia                              tài, thầy dành phần tốt cho tôi". Nếu Tỉ-kheo nhận                              lời người ấy, thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi giữ lại vật                              tốt thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi đã chia vật                              dụng xong, thì phạm tội Ba La Di.                              Lúc sắp chia vật                              dụng, Tỉ-kheo hỏi: "Nên chia vật gì trước hết?"Chủ                              nhân đáp: "Trước hết chia loài hai chân và bốn                              chân". Tỉ-kheo liền chia loài hai chân trước. Trong                              hàng nô tỳ những người già cả khó sai bảo, không tin                              cậy được chia thành một phần, còn những người trai                              trẻ, không bệnh, dễ sai bảo, tin cậy được chia thành                              một phần. Khi chia loài bốn chân thì trong đàn bò                              những con già nua mất sức, xấu xí, khó dùng, không                              sinh sản, ít sữa, hoặc có sữa mà không vắt được,                              chia thành một phần, còn những con răng nhỏ, mập                              mạp, lanh lẹ, dễ sử dụng, mắn đẻ, nhiều sữa, hiền                              lành, dễ dạy, chia thành một phần.                              Khi chia phòng xá                              thì xếp các loại cũ kỹ, mục nát, thành một phần, còn                              những ngôi nhà mới đẹp đẽ, xếp thành một phần.                              Về lầu gác, hàng                              quán cũng như thế.                              Cho đến chia                              ruộng thì xếp những đám cằn cỗi, đất xấu thành một                              phần, những đám phì nhiêu, đất tốt thành một phần.                              Trong vườn, những chỗ đất chết, ít hoa trái chia                              thành một phần, còn chỗ đất tốt, hoa trái sum sê                              chia thành một phần. Lại sắp chia lúa thóc, vàng                              bạc, của cải.                              Bấy giờ, người                              anh nói với Tỉ-kheo : "Thầy là người mà cha mẹ tôi                              kính mến, anh em tôi tôn trọng, vì sao chia của lại                              chia như thế?"                              Thầy ấy bèn suy                              nghĩ lại về Phật dạy: "Nếu Tỉ-kheo đem cái tâm như                              thế mà chia của cho người ta, thì dù chủ không đồng                              ý nhận phần, cũng phạm tội Việt Tỳ Ni".                              Khi Câu Lô trở về                              rồi, hai anh em người ấy bèn bàn bạc: Vậy thì ai là                              người mà cha mẹ kính trọng, là bậc kỳ cựu đại đức                              biết trong nhà có gì hay không có, để nhờ họ chia                              của? Nếu không chia nhanh, sợ vua nghe được (251a)                              hoặc có thể đánh thuế đoạt mất". Họ nghĩ lại thì                              thấy Câu Lô không có lỗi, nên anh em bàn nhau mời                              Câu Lô chia gia tài trở lại. Thế rồi, họ đi đến Câu                              Lô, lễ bái thăm hỏi, rồi ngồi sang một bên, bạch với                              Câu Lô: "Thầy là người mà cha mẹ tôi kính trọng,                              trong nhà có gì hay không thầy đều biết, nay hãy vì                              chúng tôi mà chia giúp gia tài này".                               Lúc ấy, Câu Lô                              tức giận, vì trước đó họ không chịu nhận sự phân                              chia, nên bảo: "Anh em ngươi bạc nghĩa, đa nghi, bất                              tín, ai còn nhẫn nại để chia gia tài cho bọn ngươi                              nữa?"                              Anh em họ liền                              thưa: "Trước đây vì chúng tôi bồng bột nên cảm thấy                              hổ thẹn với thầy, trong nhà của cải nhiều ít thầy                              đều biết rõ, nay xin thầy hãy chia giúp tài sản này.                              Nếu để quan thuế biết được, e họ đánh thuế cướp mất,                              cho nên chúng tôi muốn chia cho nhanh".                               Tỉ-kheo hỏi lại:                              "Các ngươi nhất định muốn nhờ ta chia sao?"                              Ðáp: "Ðúng thế                              thưa thầy!"                              Tỉ-kheo ấy liền                              bảo: "Nếu đã nhất quyết thì phải cam kết, sau khi                              chia của, được phần liền nhận, không ai được nói gì                              nữa, thì ta mới chia cho các ngươi". Họ đồng thanh                              đáp: "Xin vâng lời dạy, không dám trái lời nữa".                              Thầy Tỉ-kheo ấy khi đã nhận lời thỉnh cầu của họ                              phải chia phần bằng nhau. Khi chia ruộng phải dùng                              dây căng ra đo đất, nếu đem tâm thiên vị mà đo đất                              thì dù chênh lệch nhau một buội lúa, Tỉ-kheo này                              liền phạm tội Ba La Di. Vì đất vốn là vật vô giá.                              Ðó gọi là vườn                              (đất) sai biệt.                               Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo dấy tâm trộm cắp chạm vào các vườn sai biệt                              này thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Cho đến đủ số quy định,                              thì phạm tội Ba La Di.                              12- Ăn trộm sai                              biệt: Có các Tỉ-kheo đang đi đường bị bọn cướp cướp                              của, nhưng bọn cướp ít, Tỉ-kheo đông. Lúc ấy, các                              Tỉ-kheo bèn bảo nhau: "Nay bọn cướp ít mà chúng ta                              đông, ta phải hợp nhau lấy lại vật đã mất", bèn cùng                              nhau cầm gạch, đá, đuổi theo bọn cướp ấy mà mắng                              lớn: "Quân trộm cướp tệ ác tội lỗi kia! Chúng ta đã                              tự mình cạo bỏ râu tóc, các ngươi tưởng ta cắt bỏ                              luôn cả tay rồi ư?". Lúc ấy, bọn cướp liền vứt y                              bát, tìm đường tẩu thoát. Nếu các Tỉ-kheo ấy chưa                              nghĩ là mình đã mất của, rồi lấy lại vật cũ thì                              không có tội. Nếu nghĩ là mình đã mất, rồi lấy lại                              vật ấy, tức là kẻ cướp lấy đồ của kẻ cướp, hễ đủ số                              quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Có các Tỉ-kheo                              đang đi đường bị bọn cướp cướp đoạt. Các Tỉ-kheo mất                              y bát rồi, vào núp trong rừng, bọn cướp suy nghĩ:                              "Ðồ đảng chúng ta đông mà vật này thì ít, chia nhau                              sao đủ? Ta phải tìm thêm chút ít nữa". Liền đem y                              bát cất giấu một chỗ, rồi cướp của những người đang                              đi đường khác. Khi ấy các Tỉ-kheo thấy được các vật                              bọn chúng cất giấu, rình bọn cướp đi khỏi, bèn lấy                              lại y bát. Nếu các Tỉ-kheo ấy trước đó không nghĩ là                              mình đã mất của, rồi lấy lại vật cũ, thì không có                              tội. Nếu nghĩ là đã mất (251b) thì không nên lấy.                              Nếu lấy tức là đi cướp đồ của kẻ cướp, hễ đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba La Di.                               Lại có Tỉ-kheo đi                              đường bị bọn cướp cướp đoạt y bát của Tỉ-kheo, rồi                              thuận đường đi tiếp. Khi ấy, Tỉ-kheo trông chừng xem                              chúng đi đâu, rồi theo sát chúng không ngừng. Ðến                              một làng kia, bọn cướp liền chia đồ vật. Tỉ-kheo bèn                              nói với chúng: "Các lão trượng! Tôi là người xuất                              gia, xin của người khác để nuôi sống. Các vị có thể                              xin y bát của tôi, nhưng các vị đâu có dùng y bát                              này làm gì?"Nếu Tỉ-kheo nói như thế mà đòi lại được,                              thì không có tội.                               Nếu bọn cướp mắng                              rằng: "Này kẻ Samôn tệ ác! Ta định xin cả tính mạng                              của ngươi. Sao ngươi còn dám tới đây mong đòi lại y                              bát?"                              Tỉ-kheo suy nghĩ:                              "Ở đây gần làng xóm, bọn cướp này ắt không dám hại                              ta, ta phải dọa chúng".                               Liền nói với bọn                              cướp: "Các ngươi tưởng ta không có ai che chở sao?                              Ta sẽ tâu với vua và các quan đại thần biết các                              ngươi là bọn cướp". Nếu đe dọa chúng mà được, thì                              không có tội.                               Nếu quân cướp nổi                              giận nói: "Ta nhất định không cho, ngươi muốn đi                              thưa tùy ý". Nếu Tỉ-kheo trình báo với xã trưởng,                              rồi ông ta bắt bọn cướp hoặc trói, hoặc giết, thì                              không nên báo. Nếu báo với xã trưởng tìm phương tiện                              khuyến dụ họ mà được y bát, thì không có tội.                              Lại có thầy                              Tỉ-kheo có nhiều y bát, nuôi đệ tử đông đúc, mà đệ                              tử của thầy thì không tu giới hạnh, nên họ nghĩ như                              sau: "Hãy đến phòng của thầy Hòa thượng lấy trộm các                              y bát. Y bát của tôi cũng để trong phòng của thầy".                              Bèn hẹn nhau: "Nếu ông được y bát thì chia cho tôi,                              nếu tôi được cũng chia cho ông", rồi vào trong                              phòng, đến chỗ móc y, lấy y của Hòa thượng đem để                              vào chỗ y của mình. Nếu chưa rời khỏi móc y cũ, thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu đã lấy y của                              thầy ra khỏi móc y, đem để vào chỗ y của mình, thì                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu y của thầy                              còn vướng ở móc y, hoặc là dây tơ chưa rời khỏi móc                              y thì chưa phạm tội Ba La Di, khi tất cả đều rời                              khỏi móc y, thì phạm tội Ba La Di. Nếu thầy Hòa                              thượng nghi đệ tử có thể lấy trộm y bát của mình,                              bèn lấy y bát đó đem cất một chỗ khác. Người đệ tử                              bèn vào trong phòng tối ăn trộm nhầm y bát của mình,                              khi ra ngoài không phân biệt được. Nếu trong nửa số                              y đó mà đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               Có một Tỉ-kheo ma                              ha la (bán thế xuất gia), đã xuất gia mà không khéo                              giữ giới hạnh, nên có một Tỉ-kheo khác rủ: "Trưởng                              lão! Chúng ta hãy đi ăn trộm".                               Ma Ha La đáp:                              "Lúc còn ở nhà, tôi không làm kẻ trộm, nay đã xuất                              gia lẽ nào lại làm kẻ trộm?".                               Tỉ-kheo kia nói:                              "Thầy không muốn ăn trộm thì chỉ cần giữ cửa, tôi sẽ                              chia phần cho thầy".                               Ma Ha La suy                              nghĩ: "Ta không ăn trộm mà được chia phần bằng nhau,                              vì sao không (251c) đi", bèn đáp: "Ðược".                               Thế rồi hai người                              cùng đi. Ma Ha La giữ cửa, thầy Tỉ-kheo kia vào nhà                              ăn trộm đồ đạc. Lúc chạm vào đồ đạc, thì cả hai cùng                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                               Khi di động đồ                              đạc thì cả hai phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì cả hai phạm tội Ba La Di.                              Nếu có Tỉ-kheo                              khách đến, rồi nghỉ tại phòng ăn, hoặc tại phòng tọa                              thiền, đến sáng sớm ra đi, bèn quên y bát và các vật                              khác. Bấy giờ, Tỉ-kheo tri khách (ma ma đế) đi tuần                              hành các phòng ốc để xem Tỉ-kheo khách kia đi hay                              chưa, bỗng thấy y bát liền sinh tâm trộm cắp, lấy y                              bát dời sang một chỗ khác (cất giấu), thì phạm tội                              Ba La Di.                              Lại có Tỉ-kheo                              khác đến trông thấy y bát cũng sinh tâm trộm cắp,                              liền lấy dời một chỗ khác cất giấu, cũng phạm Ba La                              Di.                              Lại một người thứ                              ba đến trông thấy lại sinh tâm trộm cắp, đem cất                              giấu một chỗ khác nữa, cũng phạm Ba La Di. Tùy số                              người nhiều ít khởi tâm trộm cắp di chuyển (các vật                              ấy), tất cả đều phạm tội Ba La Di. Nhưng nếu người                              chủ y vật khi đã đi xa bỗng nhớ lại, bèn quay về chỗ                              tạm trú, nhận lại được y vật, thì không có tội.                              Có Tỉ-kheo quên y                              bát, Tỉ-kheo khác thấy, liền sinh tâm trộm cắp,                              nhưng không tự tay lấy mà khiến Tỉ-kheo thị giả (Ma                              ha la) lấy. Tỉ-kheo thị giả tưởng là y bát của thầy                              ấy bèn cầm lấy. Khi chạm vào y bát thì Tỉ-kheo có                              tâm trộm cắp kia phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Khi di động thì                              phạm tội Thâu Lan Giá.                              Khi dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Còn Tỉ-kheo thị                              giả vì không có tâm trộm cắp, nên cả ba lúc đều                              không có tội. Nếu vị kia ban đầu bảo thị giả lấy y                              bát rồi sẽ chia phần, mà thị giả sinh tâm trộm cắp                              chạm vào thì ngay lúc ấy cả hai đều phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Khi di động, cả                              hai phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì cả hai phạm tội Ba La Di.                              Nếu thị giả thấy                              rồi, suy nghĩ: "Việc gì phải chia phần cho ông ấy?                              Ta hãy độc chiếm", rồi lấy đi thì phạm tội Ba La Di.                              Còn vị Tỉ-kheo                              kia phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu Tỉ-kheo muốn                              làm tháp Phật mà không có vật liệu, trong khi chúng                              Tăng có vật liệu, liền suy nghĩ: "Trời người sở dĩ                              cúng dường chúng Tăng là đều mong ân Phật, cúng                              dường Phật tức là cúng dường chúng Tăng", bèn đem                              vật của chúng Tăng sửa chữa tháp, thì Tỉ-kheo kiến                              thiết ấy phạm tội Ba La Di. Nếu tháp có vật liệu mà                              chúng Tăng không có,liền suy nghĩ: "Cúng dường Tăng                              thì Phật cũng có trong đó", liền đem vật của tháp                              cúng dường chúng Tăng, thì vị Tỉ-kheo kiến thiết này                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu tháp không có                              vật liệu mà chúng Tăng có vật liệu thì được phép                              mượn dùng, nhưng phải làm biên bản ghi rõ: Lúc nào                              mượn dùng, lúc nào trả lại; trái lại, nếu Tăng không                              có vật liệu mà tháp có vật liệu, thì được phép                              (252a) mượn dùng cũng như thế. Khi bàn giao, thầy                              tri sự phải đọc biên bản bàn giao rõ ràng giữa chúng                              Tăng, nếu không đọc biên bản, thì phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Ðó gọi là mượn                              dùng tạm.                              Hai Tỉ-kheo có                              tài vật chung phải chia nhau, nhưng một Tỉ-kheo sinh                              tâm trộm cắp độc chiếm, thì trừ ra phần của thầy,                              phần kia đủ số quy định sẽ phạm tội Ba La Di.                              Nếu thầy kia đồng                              ý, thì giữ lấy không có tội. Hoặc suy nghĩ: "Nay tôi                              mượn dùng, sau này sẽ trả lại", thì không có tội.                              Có hai Tỉ-kheo                              chuyên giáo hóa cùng cam kết với nhau: "Từ nay trở                              đi nếu tôi hoặc thầy được phẩm vật thì phải chia                              hai". Nhưng sau đó, một người được một tấm y đẹp,                              bèn suy nghĩ: "Nếu sau này được cái khác chưa chắc                              được như thế này", liền nói với bạn: "Từ nay trở đi                              lộc của ai thì thuộc về người ấy. Nếu thầy được thì                              thầy tự giữ lấy, nếu tôi được thì tôi tự giữ lấy".                               Vì chiếc y vừa                              được kia trái với cam kết, nên một nửa trong đó mà                              đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               Nếu Tỉ-kheo này                              nhận bố thí, chú nguyện xong rồi, nói với thí chủ:                              "Hãy để vật này ở chỗ ông, sau này tôi sẽ lấy", bèn                              nói với bạn: "Trưởng lão! Từ nay trở đi lộc của ai                              thì người ấy giữ lấy. Nếu thầy được thì thầy giữ,                              nếu tôi được thì tôi giữ".                               Khi nói lời ấy                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu Tỉ-kheo này                              nghe có người kia định bố thí y, liền nói trước với                              bạn: "Trưởng lão! Từ nay trở đi lộc của ai thì người                              ấy giữ lấy. Nếu tôi được thì tôi giữ, nếu thầy được                              thì thầy giữ". Khi nói như thế thì phạm tội Việt Tỳ                              Ni.                              Có hai Tỉ-kheo                              theo hạnh phấn tảo y, cùng cam kết: "Từ nay trở đi                              nếu được phấn tảo y, thì chúng ta chia nhau".                               Lúc ấy một                              Tỉ-kheo được y phấn tảo đẹp, liền suy nghĩ: "Y này                              rất đẹp, sau này nếu được nữa thì chưa chắc được như                              vậy", bèn nói với bạn: "Trưởng lão! Từ nay trở đi                              lộc của ai thì người ấy giữ lấy. Nếu thầy được thì                              thầy giữ, nếu tôi được thì tôi giữ". Vì Tỉ-kheo này                              trái lời cam kết trước, nên trong nửa phần y ấy mà                              đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo này                              được y phấn tảo đẹp mà không mang về, lại đem cất                              giấu, lấy cỏ, gạch phủ lên, rồi trở về giải lời cam                              kết như trên đã nói, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu Tỉ-kheo này                              thấy y phấn tảo đẹp nhưng không lấy cũng không cất                              giấu mà trở về giải lời cam kết như trên đã nói, thì                              phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Các Tỉ-kheo phải                              biết vật của Tăng có trường hợp nên cho, có trường                              hợp không nên cho. Thế nào là nên cho? Hoặc là vì                              tổn hại, hoặc là vì lợi ích.                              Thế nào là vì tổn                              hại?                              Có bọn cướp đến                              chùa đòi các thức ẩm thực, nếu không cho, thì chúng                              có thể đốt chùa cướp của, nên dù không đáng cho mà                              vì sợ chúng gây sự tổn hại, do đó, ta phải tùy nghi                              cho chúng nhiều ít.                              (252b) Thế nào là                              vì lợi ích?                              Khi sửa chữa                              phòng ốc của chúng Tăng, nên cho các thợ nề, thợ                              mộc, thợ vẽ, cai thầu ăn bữa sáng và bữa chiều, và                              cho các thứ dầu thoa, nước giải khát v.v... Hoặc vua                              và các người có thế lực lớn, ta phải cho họ ăn uống.                              Ðó gọi là vì lợi                              ích nên phải cho.                              Có Tỉ-kheo mất y                              bát, vật dụng, nếu chưa nghĩ xả bỏ nó, mà sau đó                              biết nó ở đâu rồi đến đó tìm, tìm được thì không                              phạm. Trái lại, nếu đã nghĩ đã xả bỏ nó, thì dù biết                              nó ở đâu cũng không nên đến tìm, vì tìm thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni.                              Nếu khi mất, bụng                              thầm nhủ: Sau này nếu biết nó ở đâu ta sẽ đến tìm,                              thì khi tìm được sẽ không có tội.                              Có hai Tỉ-kheo                              cùng cam kết: Cùng thọ trì kinh chung, cùng tụng                              kinh chung. Nhưng về sau, không thọ trì, không đọc                              tụng thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Ðó gọi là vật ăn                              trộm sai biệt.                              Nếu Tỉ-kheo dấy                              tâm trộm cắp chạm vào những vật ăn trộm sai biệt ấy                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động                              chúng, thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di.                               13- Thuế sai                              biệt: Có một Tỉ-kheo đi đường cùng với khách buôn.                              Tỉ-kheo này có đồ chúng đông đảo. Khi ấy khách buôn                              nói với một Tỉ-kheo : "Thầy của ông là bậc đại đức,                              đến chỗ thuế quan, ai mà dám kiểm tra. Ông hãy vì                              tôi cầm vật này bỏ vào trong xách y của thầy ông, đi                              qua chỗ thuế quan". Người đệ tử ấy bằng lòng, cầm                              vật kia bỏ vào trong xách y của thầy, thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Còn thầy không biết nên không có tội.                              Nếu đi qua chỗ                              thuế quan thì đệ tử phạm tội Thâu Lan Giá. Thầy                              không phạm.                              Nếu qua khỏi chỗ                              thuế quan thì đệ tử phạm tội Ba La Di. Thầy không                              phạm.                              Nếu khách buôn                              nói với vị thầy rằng: "Thầy là người phước đức, đồ                              chúng cùng đi ai dám kiểm tra, xin thầy vì tôi đem                              ít vật này bỏ vào túi xách của đệ tử thầy để qua chỗ                              quan thuế". Thầy ấy liền đồng ý, lấy bỏ vào trong                              túi xách của đệ tử, thì phạm tội Việt Tỳ Ni. Ðệ tử                              không biết nên không có tội.                              Nếu đến chỗ quan                              thuế, thì thầy phạm tội Thâu Lan Giá. Ðệ tử không có                              tội.                              Nếu qua khỏi chỗ                              quan thuế, thì thầy phạm tội Ba La Di. Ðệ tử không                              có tội.                              Nếu khách buôn                              nói với cả hai thầy trò và hai người đều đồng ý, thì                              cả hai phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu đến chỗ quan                              thuế, thì cả hai phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu qua khỏi chỗ                              quan thuế, thì cả hai phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo đi                              đường cùng với khách buôn, đến nơi xóm làng, Tỉ-kheo                              rửa tay, khách buôn hỏi: "Trưởng lão định đi đâu?".                              Ðáp: "Ta định đi khất thực". Khách buôn nói: "Thầy                              khỏi đi khất thực, tôi sẽ cho đồ ăn", bèn cho                              Tỉ-kheo các thức ăn ngon.                               Khi ăn xong, nói                              với Tỉ-kheo : "Thầy hãy vì (252) tôi cầm một ít vật                              này qua chỗ quan thuế".                               Tỉ-kheo nói: "Ðức                              Thế Tôn chế giới không cho phép ta mang vật phải                              đóng thuế qua cửa thuế quan".                               Khách buôn suy                              nghĩ: "Qua cửa thuế quan cũng mất, cho Tỉ-kheo cũng                              mất, cả hai đều mất, nhưng cho Tỉ-kheo có thể được                              phước đức", bèn nói với các Tỉ-kheo : "Hãy đứng theo                              thứ tự, tôi muốn bố thí", liền tuần tự bố thí. Trong                              bát của mỗi người đều đầy những vật báu. Khi bố thí                              xong, khách buôn bèn đi qua cửa khẩu, dừng lại đợi                              các Tỉ-kheo . Các Tỉ-kheo sau đó đi đến. Người khách                              buôn ấy liền đảnh lễ dưới chân các Tỉ-kheo, bạch                              rằng: "Các tôn đức có biết không?"                              Các Tỉ-kheo đáp:                              "Biết".                              Lại hỏi:"Có biết                              trước đây tôi bố thí không?" Ðáp: "Biết".                              Hỏi: "Nếu biết,                              thì vì sao tôi bố thí?"                              Ðáp: "Vì ông muốn                              làm phước".                              Khách buôn nói:                              "Ðúng vậy! Nhưng vợ con tôi đang cần đến cơm áo. Mắc                              nợ thì phải trả. Vậy xin trả lại các vật trước đây".                              Tỉ-kheo nên nói:                              "Kẻ tệ ác! Sao ngươi dám khinh thường chúng tôi đến                              thế? Trước đây bảo là làm phước, bây giờ thì đòi                              lại".                              Nói thế rồi mà kẻ                              ấy vẫn cố đòi, Tỉ-kheo trả lại thì không phạm. Nếu                              trước kia biết họ không thật bố thí mà Tỉ-kheo vẫn                              nhận, đem hàng qua cửa thuế quan, thì dù trả lại vẫn                              phạm tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo đi                              cùng khách buôn, cho đến nói: "Phật không cho mang                              giúp vật phải đóng thuế, qua cửa thuế quan". Mà                              khách buôn nói với Tỉ-kheo : "Tôi không nhờ thầy                              mang vật này qua cửa khẩu, mà chỉ nhờ thầy giữ giúp                              cho tôi, tôi muốn gặp người giữ cửa khẩu một tí,                              giây lát sẽ trở lại".                               Thế rồi, Tỉ-kheo                              nhận vật gởi gấm, khách buôn đi qua khỏi cửa khẩu,                              dừng lại đợi Tỉ-kheo . Tỉ-kheo chờ lâu, không biết                              giao vật đó cho ai, bèn mang qua cửa khẩu, thì phạm                              tội Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo cùng                              đi đường chung với khách buôn... cho đến "Phật không                              cho mang giúp vật phải đóng thuế qua cửa khẩu". Rồi                              khách buôn nói: "Tôi không bảo Tỉ-kheo mang vật này                              qua cửa khẩu, mà chỉ nhờ giữ giúp cho tôi, tôi đi                              gặp người giữ cửa khẩu một tí rồi trở lại". Tỉ-kheo                              liền giữ giúp, và nói: "Nếu ông không trở lại, tôi                              sẽ bỏ vật của ông mà đi". Khách buôn lại suy nghĩ:                              "Tỉ-kheo tuy nói vậy, nhưng sẽ không bỏ vật của ta                              mà đi đâu", liền đi qua khỏi cửa khẩu, dừng lại đợi                              Tỉ-kheo . Tỉ-kheo dừng lại lâu mà không thấy Y trở                              lại, bèn bỏ vật tại đó, đi qua cửa khẩu. Khách buôn                              bèn hỏi Tỉ-kheo : "Hàng hóa của tôi đâu rồi?".                              Tỉ-kheo nổi giận                              nói: "Ngươi dám đùa cợt với ta sao? Trước đây ta há                              không bảo: "Nếu trong chốc lát ngươi không trở lại,                              thì ta bỏ hàng hóa của ngươi mà đi là gì? Hàng hóa                              của ngươi vẫn còn tại chỗ cũ hãy trở lại mà lấy".                              Nếu Tỉ-kheo làm như vậy thì không phạm.                              Tỉ-kheo cùng đi                              chung đường với khách buôn... cho đến "Phật không                              cho mang giúp hàng hóa phải đóng thuế qua cửa                              khẩu"(253a) rồi khách buôn nói với Tỉ-kheo : "Tôi                              không bảo Tỉ-kheo mang hàng hóa qua cửa khẩu, mà chỉ                              nhờ giữ giùm tôi, tôi đến gặp người giữ cửa khẩu một                              lát rồi trở lại". Tỉ-kheo bèn giữ giúp, và nói: "Nếu                              ông không trở lại thì tôi sẽ đem hàng hóa của ông                              gởi cho người giữ cửa khẩu". Khách buôn suy nghĩ:                              "Tỉ-kheo tuy nói vậy, nhưng lẽ nào lại đang tâm đem                              hàng hóa của ta gởi cho người giữ cửa khẩu?", bèn đi                              qua cửa khẩu, dừng lại đợi Tỉ-kheo . Tỉ-kheo chờ lâu                              không thấy Y trở lại, bèn đem hàng hóa của Y gởi cho                              người giữ cửa khẩu, nói: "Có khách buôn diện mạo như                              thế, tên họ như thế thì ông hãy thâu thuế theo hàng                              hóa và trả hàng lại cho Y"...                               Rồi Tỉ-kheo đi                              qua cửa khẩu. Khách buôn hỏi: "Hàng hóa của tôi đâu                              rồi?’ Tỉ-kheo nổi giận nói: "Ngươi dám đùa cợt với                              ta sao? Trước đây ta há không bảo, nếu trong chốc                              lát ngươi không trở lại, thì ta đem hàng hóa của                              ngươi gởi cho người giữ cửa khẩu là gì? Hàng hóa của                              người giờ đây ở chỗ người giữ cửa khẩu, hãy đến đó                              mà lấy". Nếu Tỉ-kheo làm như vậy thì không phạm.                              Tinh xá của                              Tỉ-kheo ở gần đại lộ, có một Tỉ-kheo đang đi kinh                              hành (trong ấy), rồi khách buôn (trông thấy) nói với                              Tỉ-kheo : "Tôi có món hàng phải đóng thuế, xin                              trưởng lão mang vào thành giúp tôi".                               Tỉ-kheo đáp: "Ðức                              Thế Tôn không cho phép ta mang hàng hóa phải đóng                              thuế qua cửa thuế quan. Nhưng nay ta bày cho ngươi                              một cách: Ngươi hãy đi băng qua đường, hoặc đi ngang                              qua hàng rào, hoặc đi ngang qua cái ngòi, hoặc có                              thể chất lên xe hàng đã đóng thuế, hoặc có thể gởi                              vào trong xe hàng của nhà vua, hoặc gởi vào trong                              thùng nước của nô tỳ, hoặc giấu dưới lông của con dê                              mà đi qua". Nếu chỉ vẽ cho họ như vậy thì phạm tội                              Việt Tỳ Ni. Từ trong thành chỉ vẽ cho họ ra ngoài                              thành cũng như thế.                              Nếu Tỉ-kheo biết                              hàng phải đóng thuế mà không biết rằng đem hàng phải                              đóng thuế qua cửa khẩu sẽ phạm Ba la di, thì khi đem                              hàng ấy qua cửa khẩu, đủ số quy định, sẽ phạm tội Ba                              la di.                              Hoặc Tỉ-kheo biết                              đem hàng phải đóng thuế qua cửa khẩu sẽ phạm Ba la                              di, mà không biết hàng ấy phải đóng thuế, thì khi                              đem hàng ấy qua khỏi cửa khẩu, đủ số quy định, phạm                              tội Ba la di.                              Hoặc Tỉ-kheo biết                              hàng phải đóng thuế, cũng biết rằng đem hàng phải                              đóng thuế qua cửa khẩu phạm Ba la di, thì khi món                              hàng ấy qua khỏi cửa khẩu, đủ số quy định, phạm tội                              Ba la di.                              Tỉ-kheo không                              biết hàng phải đóng thuế, cũng không biết đem hàng                              phải đóng thuế qua cửa khẩu phạm Ba la di, thì đem                              qua không phạm.                              - Thế nào là vật                              không phải đóng thuế?                              - Thế nào là vật                              phải đóng thuế?                              Các vật của                              Tỉ-kheo, Tỉ-kheo ni đệ tử của Thế Tôn, và vật của                              tất cả những người ngoại đạo xuất gia, đó là vật                              không phải đóng thuế. Nếu mua bán các vật đó thì                              phải nộp thuế.                              Ðó gọi là thuế                              sai biệt.                              Tóm lại, nếu                              Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp chạm vào các vật phải đóng                              thuế sai khác này, (253b)thì phạm tội Việt tỳ ni.                              Nếu như đủ số quy định, thì phạm tội Ba la di.                              Nếu một Tỉ-kheo                              có tâm trộm cắp chạm vào thuốc đúng thời, thì phạm                              tội Việt tỳ ni.                              Nếu di động                              chúng, thì phạm tội Thâu lan giá. Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba la di.                               Hoặc hai, hoặc ba                              cho đến nhiều Tỉ-kheo khởi tâm trộm cắp, chạm vào                              thuốc đúng thời thì phạm tội Việt tỳ ni.                              Cho đến đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba la di.                              Nếu Tỉ-kheo sai                              một Tỉ-kheo có tâm trộm cắp, chạm vào thuốc đúng                              thời, thì phạm tội Việt tỳ ni. Cho đến đủ số quy                              định, thì phạm tội Ba la di.                              Nếu sai hai                              người, ba người, cho đến sai nhiều Tỉ-kheo có tâm                              trộm cắp chạm vào thuốc đúng thời, thì phạm tội Việt                              Tỳ Ni. Cho đến đủ số quy định, thì phạm tội Ba La                              Di. Nếu Tỉ-kheo được sai khiến lại sai một Tỉ-kheo                              khác, hoặc sai hai người, ba người, cho đến nhiều                              Tỉ-kheo có tâm trộm cắp, chạm vào thuốc đúng thời                              thì phạm tội Việt Tỳ Ni.                              Nếu di động chúng                              thì phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu dời khỏi chỗ                              cũ, đủ số quy định, thì phạm tội Ba La Di. Kể cả các                              loại thuốc (thức ăn) dùng ban đêm, dùng bảy ngày,                              dùng suốt đời, cho đến những vật thanh tịnh và không                              thanh tịnh cũng như vậy.                              Tỉ-kheo có năm                              pháp đầy đủ, lấy của không cho, đủ số quy định, thì                              phạm tội Ba La Di.                              - Ðủ năm yếu tố                              sau đây, phạm Ba La Di: Ðó là:                              1- Ðủ số quy định                              (đủ năm tiền).  - Lại đủ năm yếu                              tố lấy của không cho, đủ số quy định, thì phạm tội                              Ba La Di. Ðó là:                              1- Biết là vật                              của người ta không cho.  Lại có năm yếu tố                              đầy đủ không phạm Ba La Di.                              - Ðủ năm yếu tố                              sau đây, không phạm Ba La Di. Ðó là:                              1- Tưởng là người                              ta cho.  Ðó là năm trường                              hợp Tỉ-kheo lấy của không cho, không phạm Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo lấy                              của không cho, tại phương Ðông, Tây, Bắc, Nam, trên                              hư không, chỗ trú xứ, đều phạm Ba La Di.                              Nếu Tỉ-kheo sai                              đầy tớ, hoặc người giúp việc, hoặc người quen biết,                              hoặc làm thử, hoặc chưa từng làm mà làm, hoặc ngu                              si, hoặc không biết xấu hổ tưởng là việc tốt, đi lấy                              của không cho, thì đều phạm tội.                              - Trường hợp                              không phạm: Nếu tâm loạn điên cuồng thì không có                              tội. Thế nên nói: "Nếu Tỉ-kheo lấy của không cho nơi                              làng xóm, chỗ hoang vắng, tùy theo vật lấy trộm,                              khiến vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc trục xuất,                              nói: "Ôi, kẻ nam tử! Ngươi là kẻ trộm sao? Ngươi là                              kẻ ngu si sao?".                              Nếu Tỉ-kheo là kẻ                              ăn trộm như thế, thì phạm tội Ba La Di, không được                              sống chung (cùng Tăng chúng)".                              Khi ấy, Ðức Thế                              Tôn trú tại thành Vương xá, sau bữa thọ trai, Ngài                              ngồi quay mặt về hướng Ðông, bóng xế dài chừng hai                              người, vào ngày thứ mười giữa tháng thứ hai của mùa                              đông, sáu năm sau khi thành Phật, vì trưởng lão Ðạt                              Nị Già con của người thợ gốm nhân liên hệ đến vua                              Bình Sa và Tỉ-kheo mặc y phấn tảo mà chế giới này.                              Những gì Phật đã chế phải tùy thuận chấp hành. Ðó                              gọi là pháp tùy thuận.
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
Mở đại hội khó được. 
Vì sao chẳng bao lâu, 
Ðã đủ số ngàn người? 
Ác pháp ngày đêm tăng 
Ðại hội từ nay thôi. 
Muốn lìa xa kẻ ác 
Giờ đây nên xuất gia".                             
Chim bay và chim kêu 
Sa môn, Bà la môn 
Mẹ kế, con đời trước 
Thường mang lòng ganh ghét, 
Muốn hãm hại lẫn nhau".                             
Chớ nổi giận bốc đồng 
Lìa bạn tốt đáng yêu,  
Hại oai người lương thiện 
(244a) Ví như Bà la môn 
Giết Na Câu La nọ".                             
2.- Dạ phần dược (thuốc dùng ban đêm) 
3.- Thất nhật dược (thuốc dùng trong vòng bảy ngày).                             
4.- Tận hình dược (thuốc dùng suốt đời) 
5.- Tùy vật (vật tùy thân) 
6.- Trọng vật (vật quan trọng) 
7.- Bất tịnh vật (vật không thanh tịnh) 
8.- Tịnh bất tịnh vật (vật vừa thanh tịnh vừa không                              thanh tịnh).                             
2- Xứ sai biệt. 
3- Bất định sai biệt. 
4- Tường vách sai biệt. 
5- Lồng sai biệt. 
6- Ký sai biệt. 
7- Tạp sai biệt. 
8- Phương sai biệt. 
9- Tướng sai biệt. 
10- Cây cọc sai biệt. 
11- Vườn sai biệt. 
12- Ăn trộm sai biệt. 
13- Thuế sai biệt.                             
b- Thuốc dùng ban đêm. 
c- Thuốc dùng trong vòng bảy ngày. 
d- Thuốc dùng suốt đời. 
đ- Vật tùy thân. 
e- Vật nặng. 
g- Vật không thanh tịnh. 
h- Vật thanh tịnh và không thanh tịnh.                             
2- Có chủ. 
3- Biết là có chủ. 
4- Sinh tâm trộm cắp. 
5- Rời khỏi chỗ cũ.                             
2- Biết là không phải của mình. 
3- Biết là có chủ. 
4- Biết là họ không đồng ý. 
5- Không nghĩ là mình mượn tạm.                             
2- Tưởng là của mình. 
3- Tưởng là vật vô chủ. 
4- Tưởng là người chủ đồng ý. 
5- Nghĩ là mình mượn tạm.                             
