Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri               Quyển Thứ                              Hai                                                           PHẦN THỨ HAI: NÓI RÕ BỐN PHÁP BA LA DI (Ðoạn                              cuối của giới dâm)  (235a) Lại                              nữa, khi Phật ở tại thành Xá Vệ, như trên đã nói .                              Lúc bấy giờ tại nước Uất Xà Ni có người vợ của một                              chàng thanh niên tính tình gian dâm, cùng giao hoan                              với người khác. Người chồng tức giận khiển trách                              trực tiếp nàng nhưng rồi nàng vẫn thế, nên anh ta                              muốn trừng phạt nghiêm khắc, song nàng vẫn không                              chịu bỏ. Người chồng rình lúc họ hành lạc, liền bắt                              cả hai đem lên trình với nhà vua, và tâu rằng:                              - Tâu đại                              vương, người đàn bà này là kẻ bất lương đã cùng với                              ông này làm tình, xin đại vương hãy trừng trị nghiêm                              khắc để ngăn ngừa về sau.  Khi ấy nhà vua                              vô cùng tức giận bèn ra lệnh quan hữu ty chặt tay                              chân cô ta, rồi đem vứt ngoài nghĩa địa. Quan hữu ty                              liền dẫn cô ta ra nghĩa địa, chặt tay chân, rồi bỏ                              nằm ngửa tại đó.  Bấy giờ có                              thầy Tỳkheo đi qua nghĩa địa, thấy người phụ nữ ấy                              đang nằm lõa thể trên đất, vì thầy tư duy không chân                              chánh, nên phát sanh dục tưởng, bèn bảo người phụ nữ                              kia, cùng làm việc ấy (hành lạc). Cô ta liền đáp: "Thân                              hình tôi như thế này mà có thể làm được việc ấy sao?".                               Thầy Tỳkheo                              nói: "Có thể được". Cô ta bèn đồng ý, nên hai người                              cùng hành lạc. Sau khi xong việc, thầy Tỳkheo liền                              bỏ đi.  Lúc bấy giờ                              những bạn bè thân quyến của người phụ nữ ấy cùng bảo                              nhau ra nghĩa địa xem cô ta đã chết hay còn sống.                              (235b)Thế rồi,                              họ cùng kéo nhau ra nghĩa địa, thấy cô ta bị chặt cả                              tay chân, đang nằm ngửa trên đất và trên thân còn                              dấu vết vừa mới hành lạc. Họ đều nổi giận bảo với cô:                              - Ngươi đang                              bị thống khổ, mà còn làm chuyện ấy, con người ta sao                              có thể vô sĩ đến thế?  Người phụ nữ                              ấy đáp: "Người ta đến cưỡng bức tôi, chớ không phải                              lỗi của tôi".   Họ bèn hỏi: "Kẻ                              cưỡng bức là ai vậy?". Cô ta đáp: "Ðó là Samôn giòng                              họ Thích".   Mọi người đều                              thất kinh lấy làm quái lạ bảo nhau: "Hạng Samôn                              Thích tử đối với một người đàn bà tàn phế thế này mà                              không từ bỏ, huống gì những người thân thể còn toàn                              vẹn. Chúng ta phải đề phòng gìn giữ, chớ để họ tới                              gần nhà. Ðó là hạng người bại hoại, nào có đạo đức                              gì!"  Vị Tỳkheo kia,                              sau đó hối hận, nghi ngờ liền bạch đầy đủ lên Thế                              Tôn. Phật dạy: "Này Tỳkheo, thầy không nghe ta chế                              giới không đưọc hành dâm sao?"  Thầy Tỳkheo                              đáp: "Con biết Thế Tôn có chế giới nhưng tưởng là                              đối với người thân thể vẹn toàn, chứ còn người đàn                              bà này cụt tay chân kia mà?".  Phật dạy: "Người                              đàn bà bị chặt một tay trái và một chân phải hay bị                              chặt một tay phải và một chân trái, nếu Tỳkheo hành                              dâm với họ, đều phạm Ba la di".  Lại nữa, khi                              Phật ở thành Vương Xá, như đã nói ở trên. Có một                              Tỳkheo tại tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi ăn xong, vào                              trong rừng Khai Nhãn tọa thiền. Bấy giờ tại rừng                              Khai Nhãn có một phụ nữ nổi cơn điên, nằm trên đất                              ngủ, gió thổi bay vạt áo, khiến thân thể cô lộ ra.                              Khi ấy, Tỳkheo không tư duy chân chánh, dục tâm phát                              khởi, liền hành lạc với người ấy. Khi hành lạc xong,                              liền hối hận, ngờ vực, bèn bạch đầy đủ (việc ấy) lên                              Thế Tôn. Phật liền bảo với Tỳkheo: "Ngươi không biết                              rằng ta chế giới không được hành dâm sao?".                              Thầy Tỳkheo                              đáp: "Con có biết Phật chế giới, nhưng người phụ nữ                              này điên cuồng, nằm ngủ (kia mà)".  Phật dạy: "Hành                              dâm với phụ nữ điên cuồng nằm ngủ cũng phạm Ba la di".                              Lại nữa, khi                              Phật trú tại thành Tỳ Xá Ly, nói rộng như trước.v.v...                              Lúc ấy có một người vợ của cư sĩ ở nhà cha mẹ lâu                              ngày, nhà chồng sai người đến báo tin nàng ấy phải                              về gấp. Nàng bèn làm các thức ăn đem theo, trên                              đường đi nàng trúng phải gió độc nên mạng vong. Nơi                              thành Tỳ Xá Ly này khí hậu ẩm thấp, người chết không                              thể để lâu ngày. Bấy giờ, những người thân quyến tập                              họp lại, họ bảo nhau phải đưa gấp tử thi đến nghĩa                              địa, kẻo để hư thối khiến người ta nhờm tởm. Nhưng                              khi rước tử thi, gặp mưa gió lớn, họ bèn đặt tử thi                              tại một chỗ, dùng cỏ phủ lên, định sáng hôm sau đem                              đi thiêu. Song, đêm đó mưa tạnh trời trong, trăng                              sáng, lúc ấy có một Tỳkheo đi nhàn du đến nghĩa địa.                              Khi đến chỗ để tử thi, nghe mùi hương từ trong thân                              thể tử thi mới chết tỏa ra, ngỡ là người sống. Vị                              Tỳkheo này không chánh tư duy, dục (235c) tâm sinh                              khởi, liền hành dâm với tử thi. Khi hành dâm xong                              thầy thấy chưa chán, bèn vác tử thi đem về trú xứ,                              tiếp tục hành dâm suốt đêm, đến sáng sớm, bèn đóng                              cửa, vào làng khất thực. Sáng sớm hôm ấy, thân quyến                              của người phụ nữ này, mang hương dầu, củi, lửa, định                              đem thiêu xác cô ta, nhưng họ đến chỗ cũ thì không                              thấy tử thi, lại cũng không thấy dấu vết gì do chim                              muông ăn cả. Họ tìm khắp mà không thấy, họ liền mở                              cửa thảo am của Tỳkheo thì thấy tử thi trong đó, và                              trên tử thi còn dấu vết vừa mới hành lạc. Thấy thế,                              họ liền bảo nhau: "Quái lạ thay! Sa môn Thích tử,                              người chết còn không tha, huống gì là người sống! Từ                              nay trở đi chúng ta cần phải phòng hộ, chớ để Samôn                              bước chân vào nhà. Những loại này là súc vật bại                              hoại, chứ nào có đạo hạnh gì!"  Sau đó thầy                              Tỳkheo cảm thấy hối hận, ngờ vực, bèn bạch đầy đủ sự                              việc lên Thế Tôn. Phật dạy: "Này Tỳkheo! Thầy không                              biết rằng ta chế giới không được hành dâm sao?"                              Vị Tỳkheo đáp:                              "Con biết Phật có chế giới, nhưng đó là người đàn bà                              chết (kia mà)".  Phật dạy: "Hành                              dâm với người đàn bà chết cũng phạm Ba la di"                              Có ba trường                              hợp thầy Tỳkheo hành dâm phạm Ba la di, đó là hành                              dâm với người thức, người ngủ và người chết.                               Khi ấy đức Thế                              Tôn bảo các Tỳkheo đang cư trú tại Tỳ Xá Ly phải tập                              hợp lại tất cả, rồi vì 10 điều lợi ích mà chế giới                              cho các Tỳkheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu                              Tỳkheo đã thọ giới cụ túc ở trước chúng tăng hòa hợp,                              giới yếu kém không trả giới, không ra khỏi (chúng                              Tăng) mà hành dâm, thậm chí hành dâm với súc sinh,                              thì Tỳkheo ấy phạm tội Ba la di không được sống                              chung"  (Phần                              duyên khởi của Ba la di đến đây là hết)                              Giải thích:                              Tỳkheo:                              Ðã thọ cụ túc, khéo thọ giới cụ túc, đúng pháp chứ                              không phải không đúng pháp, hòa hợp, chứ không phải                              không hòa hợp, đáng khen ngợi, chớ không phải không                              đáng khen ngợi, đủ hai mươi tuổi, chứ không phải                              chưa đủ. Ðó là Tỳkheo.  Thọ giới cụ                              túc ở trước tăng chúng hòa hợp: Nếu Tỳkheo lúc thọ                              cụ túc khéo thọ cụ túc tức là Một bạch, ba lần yết                              ma, không bị chướng pháp, (già nạn). Tăng chúng hòa                              hợp, không biệt chúng, đủ 10 vị Tăng (giới sư) hoặc                              hơn 10 vị. Ðó là Tỳkheo thọ giới cụ túc ở giữa chúng                              Tăng hòa hợp.   Không                              trả giới: (Ðể rõ sự việc, trước hãy nói                              về"Trả giới")  Trả giới:                              Lúc vị Tỳkheo bị ưu sầu không vui, ý muốn bỏ pháp                              Samôn, không thích làm Tỳkheo, không ưa làm người                              con Phật, nói: "Tôi muốn làm Sadi, tôi muốn làm                              ngoại đạo; tôi muốn làm người thế tục, hưởng thọ năm                              thứ dục lạc như xưa", rồi hướng vào một Tỳkheo,                              Tỳkheo ni, Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di ni, ngoại                              đạo, người xuất gia hoặc người thế tục tại gia nói                              rằng: "Tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bỏ môn học, bỏ                              thuyết (giới), bỏ cọng trú, bỏ cọng lợi, bỏ Kinh                              luận, bỏ Tỳkheo, bỏ (236a) Samôn, bỏ dòng họ Thích.                              Tôi không phải Tỳkheo, không phải Samôn, không phải                              dòng họ Thích. Tôi là Sadi, là ngoại đạo, là người                              thế tục, nay tôi sẽ thọ hưởng ngũ dục như trước". Ðó                              gọi là trả giới.  Thế nào                              là bỏ Phật?  Bỏ Phật: Bỏ                              bậc Chánh giác, bỏ đức tối thắng, bỏ Ðấng Nhất thiết                              trí, bỏ Bậc thầy tất cả, bỏ bậc thấy không sót thứ                              gì, bỏ phụ thân của La Hầu La, bỏ đấng có thân như                              vàng ròng, bỏ bậc có ánh sáng viên mãn,bỏ 32 tướng,                              bỏ 80 tướng phụ tốt đẹp. Nếu xả bỏ mỗi mỗi danh hiệu                              Phật, đều gọi là bỏ Phật. Bỏ Phật như vậy, thì gọi                              là bỏ giới. Nhưng nếu nói bỏ Phật quá khứ, vị lai                              thì không gọi là bỏ giới, song phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu không nói bỏ Phật quá khứ, vị lai mà nói thẳng                              là bỏ Phật, đó gọi là bỏ giới. Hoặc nói: "Bỏ Bích                              Chi Phật", đó gọi là bỏ giới. Về quá khứ, vị lai                              giống như trường hợp bỏ Phật ở trên. Vả lại, tất cả                              các đệ tử xuất gia của hàng Lục sư ngoại đạo, họ                              cũng đều bảo có Phật . Nếu Tỳkheo thật sự muốn bỏ                              Phật ấy, rồi bảo rằng tôi bỏ Phật, thì không gọi là                              bỏ giới nhưng phạm tội Thâu lan giá. Song nếu vì đùa                              cợt, nói: "Tôi bỏ Phật"thì phạm tội Việt tỳ ni. Thế                              nhưng, nếu cuồng điên, nói bậy bạ thì không có tội.                              Thế nào                              là bỏ Pháp?  Pháp là không                              thuộc vào ba đời, tướng của pháp thường trụ, là vô                              vi Niết bàn, lìa các phiền não, vĩnh viễn dứt sạch                              tất cả khổ não. Nếu nói tôi bỏ những pháp ấy, tức là                              bỏ giới. Nhưng nếu nói bỏ pháp quá khứ, vị lai, thì                              không gọi là bỏ giới, song phạm tội Thâu lan giá.                              Thế nhưng, nếu không nói bỏ pháp quá khứ, vị lai mà                              nói thẳng là bỏ pháp, thì đó là bỏ giới. Tất cả                              ngoại đạo cũng đều có pháp. Nếu Tỳkheo thực sự muốn                              bỏ pháp này và nói rằng tôi bỏ pháp ấy, thì đó không                              gọi là bỏ giới. Nhưng phạm tội Thâu lan gía. Nếu nói                              đùa là mình bỏ pháp, thì phạm tội Việt tỳ ni. Nhưng                              nếu vì cuồng điên nói bậy bạ thì không có tội.                               Thế nào                              là bỏ Tăng?                                Tăng là đệ tử                              của đức Thế Tôn, là các bậc hướng chánh, hướng trí,                              hướng pháp, hướng tùy thuận pháp hành, nghĩa là tứ                              song bát bối (4 đôi 8 chúng), Tín thành tựu; Giới                              thành tựu; Văn thành tựu; Tam muội thành tựu; Tệ                              thành tựu; Giải thoát thành tựu; Giải thoát tri kiến                              thành tựu, đáng được tôn kính, là phước điền vô                              thượng. Nếu Tỳkheo nói rằng tôi bỏ Tăng như thế thì                              gọi là bỏ giới. Nhưng nếu nói tôi bỏ quá khứ, vị lai                              Tăng, thì không gọi là bỏ giới, song phạm tội Thâu                              Lan Giá. Nếu không nói quá khứ, vị lai Tăng mà nói                              thẳng là"bỏ Tăng", thì gọi là bỏ giới. Giống như                              Tỳkheo Tăng, Tỳkheo ni Tăng cũng thế. Nếu nói: "Tôi                              bỏ nhiều vị Tỳkheo"thì không gọi là bỏ giới, nhưng                              phạm tội Thâu lan giá. Nếu nói: "Tôi bỏ nhiều Tỳkheo                              quá khứ, vị lai"thì không gọi là (236b) bỏ giới,                              song phạm tội Việt tỳ ni. Nếu không nói bỏ nhiều                              Tỳkheo quá khứ, vị lai mà nói thẳng là"Tôi bỏ nhiều                              Tỳkheo"thì cũng không gọi là bỏ giới. Song phạm tội                              Thâu lan giá. Giống như nhiều Tỳkheo, nhiều Tỳkheo                              ni cũng như thế. Nếu nói: "Tôi bỏ một Tỳkheo", thì                              không gọi là bỏ giới. Nhưng phạm tội Việt tỳ ny. Nếu                              nói: "Tôi bỏ một Tỳkheo quá khứ, vị lai"thì không                              gọi là bỏ giới. Song phạm tội Việt tỳ ni tâm niệm                              sám hối. Nếu không nói: "Tôi bỏ một Tỳkheo quá khứ,                              vị lai", mà nói thẳng là: "Tôi bỏ một Tỳkheo"thì                              cũng không gọi là bỏ giới. Nhưng phạm tội Việt tỳ ni.                              Giống như một Tỳkheo, một Tỳkheo ni cũng thế. Nếu                              nói: "Tôi bỏ Hòa thượng", đó gọi là bỏ giới. Những                              sai biệt giống như trường hợp bỏ Tăng đã nói ở trên.                              Nếu nói: "Tôi bỏ thầy (A Xà Lê)", thì không gọi là                              bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu lan giá. Nếu nói: "Tôi                              bỏ thầy quá khứ, vị lai", thì không gọi là bỏ giới,                              nhưng phạm tội Việt tì ni. Nếu không nói bỏ thầy quá                              khứ, vị lai"mà nói thẳng là bỏ thầy, thì không gọi                              là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu lan giá. Nếu nói đùa                              là bỏ thầy, thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu cuồng điên                              nói bậy bạ, thì không có tội.  Các hàng ngoại                              đạo cũng đều tự xưng là Tăng. Nếu Tỳkheo thực sự                              muốn bỏ hạng Tăng ấy, và nói rằng: "Tôi bỏ ngoại đạo                              Tăng", thì không gọi là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu                              lan giá. Nếu nói đùa rằng: "Tôi bỏ Tăng", thì phạm                              tội Việt tỳ ni. Nếu vì điên cuồng nói bậy bạ, thì                              không có tội.  Thế nào                              gọi là bỏ môn học?   Các môn học                              gồm ba thứ là: Tăng thượng giới học, Tăng thượng ý (tâm)                              học và Tăng thượng tuệ học.                               Tăng thượng giới                              học: Giới Ba la đề mộc xoa, được thuyết minh rộng                              rãi hay đơn giản.                               Tăng thượng ý học:                              Chín nấc thiền định (chánh thọ)                               Tăng thượng tuệ                              học : Bốn thánh đế.  Các Tăng                              thượng giới học, Tăng thượng ý học và Tăng thượng                              tuệ học ấy đều được gọi là các môn học. Nếu Tỳkheo                              nói rằng: "Tôi bỏ những môn học ấy", tức là bỏ giới,                              như trường hợp bỏ Phật đã nói ở trên. Thế gian mỗi                              ngành đều có môn học riêng, như công nghiệp, toán số,                              kỹ thuật.v.v... đều gọi là môn học. Nếu Tỳkheo muốn                              bỏ những môn học ấy, và nói rằng: "Tôi bỏ môn học đó",                              thì không gọi là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu lan                              giá.Hoặc như ngoại đạo mỗi phái đều có một môn học                              riêng. Nếu Tỳkheo muốn bỏ những môn học đó vờ vĩnh                              nói: "Tôi bỏ các môn học ngoại đạo"thì không gọi là                              bỏ giới nhưng phạm tội Thâu lan giá. Nếu nói đùa                              rằng : "Tôi bỏ môn học", thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu vì cuồng điên nói bậy bạ thì không có tội.                              Thế nào                              gọi là bỏ Thuyết (giới)?                              Thuyết giới có                              ba trường hợp, hoặc thuyết giới vào ngày 14, hoặc                              ngày 15, hoặc trung gian thuyết giới (Bố tát).                              Ngày 14 là:                              Vào mùa Ðông, Bố tát lần thứ ba và thứ bảy. Mùa Xuân,                              Bố tát lần thứ ba và thứ bảy. Mùa Hạ (236c) Bố tát                              lần thứ ba và thứ bảy. Ðó là trong một năm có sáu                              lần Bố tát vào ngày 14. Ngoài ra, mười tám lần Bố                              tát còn lại vào ngày 15, cộng chung lại gồm có hai                              mươi bốn lần Bố tát, và được gọi là Bố tát ngày 14,                              Bố tát ngày 15 và trung gian Bố tát.   Khi Tỳkheo làm                              lễ Bố tát, nếu Tăng không hòa hợp (nên không Bố tát                              được) mà có một Tỳkheo xướng lên rằng: "Ðợi khi nào                              Tăng hòa hợp sẽ Bố tát"(thì Tăng không phạm tội).                              Nếu không có một Tỳkheo nào xướng như thế, thì Tăng                              phạm tội Việt tỳ ni. Nếu đến 15 ngày mà Tăng không                              hòa hợp thì đến ngày kế tiếp phải Bố tát. Nếu ngày                              kế tiếp cũng không hòa hợp thì ngày thứ hai cho đến                              ngày thứ mười hai phải Bố tát. Nếu ngày thứ mười hai                              cũng không hòa hợp thì đến ngày thứ mười ba phải Bố                              tát. Nếu kỳ Bố tát đó chỉ có 14 ngày, thì ngày thứ                              13 không được trung gian Bố tát, mà phải dồn vào                              ngày 14 Bố tát chung một lần. Ngày Bố tát đó cũng                              gọi là trung gian Bố tát, và cũng gọi là ngày Bố tát                              chính thức. Nếu gặp tháng đủ (30 ngày), thì đến ngày                              thứ 13 có thể làm trung gian Bố tát khi mà Tăng                              chúng hòa hợp. Nếu Tăng chúng bất hòa thì không được                              Bố tát vào ngày thứ 14 mà để sang ngày thứ 15 Bố tát                              luôn một lần. Lần Bố tát này vừa gọi là trung gian                              Bố tát, vừa gọi là chính thức Bố tát. Vì sao vậy? -                              Vì không được Bố tát hai ngày liền nhau mà phải để                              cách một ngày Bố tát. Ðó gọi là trung gian Bố tát. (Nếu                              trường hợp) đáng Bố tát vào ngày thứ 14 thì không                              nên dời lại ngày 15 mới Bố tát, trái lại đáng Bố tát                              vào ngày thứ 15 thì cũng không được Bố tát vào ngày                              14. Nhưng nếu có lý do chính đáng thì có thể Bố tát                              được. Hoặc ngày 14, hoặc ngày 15, hoặc trung gian Bố                              tát, đều gọi là thuyết (giới). Nếu nói rằng tôi bỏ                              sự thuyết giới ấy, thì gọi là bỏ giới, như trường                              hợp bỏ Phật đã nói ở trên.  Các hàng ngoại                              đạo khác cũng đều có sự thuyết giới. Nếu thực sự                              muốn bỏ sự thuyết giới ấy, giả vờ nói: "Tôi bỏ sự                              thuyết giới của ngoại đạo", thì không gọi là bỏ giới,                              nhưng phạm tội Thâu lan giá. Nếu nói đùa rằng: "Tôi                              bỏ thuyết giới", thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu tâm                              trí cuồng điên nói bậy bạ thì không có tội.                              Thế nào                              là bỏ cọng trú?  Cọng trú gồm                              có hai loại: Một là Thanh tịnh cọng trú. Hai là                              Tương tợ cọng trú.                               1.- Thanh tịnh                              cọng trú là: Tăng chúng đều thanh tịnh, cùng nhau Bố                              tát, đó gọi là thanh tịnh cọng trú.                               2.- Tương tợ cọng                              trú là: Không thanh tịnh mà làm ra vẻ thanh tịnh để                              cùng với người thanh tịnh làm lễ Bố tát, đó gọi là                              tương tợ cọng trú. Hai loại thanh tịnh cọng trú và                              tương tợ cọng trú đều được gọi là cọng trụ. Nếu nói                              rằng: "Tôi bỏ cọng trú", thì gọi là bỏ giới, như                              trường hợp bỏ Phật đã nói ở trên.  Các hàng ngoại                              đạo cũng có sự cọng trú. Nếu thật sự muốn bỏ sự cọng                              trú ấy, giả vờ nói: "Tôi bỏ sự cọng trú ấy", thì                              không gọi là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu lan giá.                              (237a) Nếu nói đùa rằng: "Tôi bỏ cọng trú"thì phạm                              tội Việt tỳ ni. Nếu tâm trí điên cuồng nói bậy bạ                              rằng: "Tôi bỏ cọng trú", thì không có tội.                              Thế nào                              là bỏ cọng lợi?  Cọng lợi gồm                              có hai loại: Một là Pháp lợi. Hai là Y thực lợi.                                                           1.- Pháp lợi: Thọ                              tụng, thưa hỏi.   Pháp lợi và Y                              thực lợi này nói chung là Cọng lợi. Nếu Tỳkheo nói:                              "Tôi bỏ những thứ lợi này"thì gọi là bỏ giới. Ngoài                              ra như bỏ Phật đã nói rõ ở trên. Nếu nói: "Tôi bỏ                              pháp lợi"tức là bỏ giới, nhưng nếu chỉ nói: "Tôi bỏ                              y thực lợi", thì không gọi là bỏ giới, song phạm tội                              Thâu lan giá. Nếu nói: "Tôi bỏ y thực lợi của quá                              khứ, vị lai", thì phạm tội Việt tỳ ni.   Các hàng ngoại                              đạo cũng có cọng lợi. Nếu thực tình muốn bỏ thứ cọng                              này, giả vờ nói: "Tôi bỏ thứ cọng lợi kia", thì                              không gọi là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu Lan Giá.                              Nếu nói đùa rằng: "Tôi bỏ cọng lợi"thì phạm tội Việt                              tỳ ni. Nếu vì tâm trí cuồng điên nói bậy bạ rằng: "Tôi                              bỏ cọng lợi", thì không có tội.  Thế nào                              là bỏ Kinh luận?  Các Kinh luận                              gồm có chín bộ loại. Nếu Tỳkheo nói: "Tôi bỏ Kinh                              luận này", thì gọi là bỏ giới. Nếu nói: "Tôi bỏ                              Kinhluận quá khứ, vị lai", thì không gọi là bỏ giới,                              nhưng phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu dùng văn chương thi                              hóa lời Phật dạy để ngâm ca xướng tụng, rồi nói: "Tôi                              bỏ lời Phật dạy trong những xướng tụng ấy", thì gọi                              là bỏ giới.  Các hàng ngoại                              đạo cũng có Kinh luận. Nếu thực sự muốn bỏ thứ Kinh                              luận này, và nói: "Tôi bỏ Kinh luận của họ"thì không                              gọi là bỏ giới, nhưng phạm tội Thâu Lan Giá. Nếu nói                              đùa rằng: "Tôi bỏ Kinh luận", thì không gọi là bỏ                              giới, nhưng phạm tội Việt Tỳ niù. Nếu tâm trí cuồng                              loạn nóibậy bạ rằng: "Tôi bỏ Kinh luận", thì không                              phạm tội.  Lại nữa, nếu                              Tỳkheo nói: "Tôi bỏ Phật, Phật bỏ tôi, tôi lìa Phật,                              Phật lìa tôi, tôi xa Phật, Phật xa tôi, tôi chán                              Phật, Phật chán tôi, tôi thôi Phật, Phật thôi tôi..."như                              vậy đều gọi là bỏ giới. Hoặc là bỏ Kinh luận cũng                              như thế, đều gọi là bỏ giới hay không phải bỏ giới.                              Nếu vì giận dữ, vì bốc đồng mà nói, hoặc nói một                              mình, hoặc nói mà không rõ, hoặc nhân tranh luận                              hoặc tưởng tượng một mình mà nói, hoặc nói với người                              không hiểu, hoặc nói với người ngủ, hoặc nói với                              người điên, hoặc nói với người đang khổ não. (237b)                              hoặc nói với trẻ con, hoặc nói với phi nhân, hoặc                              nói với súc sinh.v.v... nói trả giới trong những                              trường hợp như thế thì không gọi là bỏ giới.                              Giới yếu                              kém: Người ấy suy nghĩ: "Chi bằng ta bỏ Phật,                              Pháp, Tăng, bỏ luôn Kinh luận". Lại suy nghĩ: "Ta                              nên làm Sadi, làm người thế tục, làm ngoại đạo".                              Người này tâm niệm, miệng nói, nhưng chưa quyết định                              hướng đến người khác nói, đoù gọi                              là giới yếu kém. Nếu người này nói ra về giới yếu                              kém của mình, thì mỗi lời, mỗi lời đều phạm tội Thâu                              lan giá. Hoặc người ấy tâm niệm miệng nói: "Chi bằng                              ta bỏ Phật ..."cho đến nói: "Chi bằng ta làm người                              thế tục như trước", lại nói: "Ta bỏ Phật là tốt nhất"...                              cho đến nói: "Ta sống lại đời sống thế tục là tốt                              nhất", đó gọi là giới yếu kém. Nếu nói lên giới yếu                              kém của mình, thì mỗi lời, mỗi lời đều phạm tội Thâu                              lan giá. Ðó gọi là giới yếu kém.  Hành dâm:                              Cùng với người nữ có sinh mệnh hành dâm tại ba chỗ (âm                              hộ, hậu môn và miệng), lúc bắt đầu, giai đoạn giữa                              và lúc cuối cảm thấy khoái lạc, đó gọi là sự hành                              dâm. Nếu Tỳkheo giới yếu kém, hành dâm thì phạm tội                              Ba la di không được sống chung (với Tăng chúng). Nếu                              Tỳkheo hành dâm với người phụ nữ đang sống hay chết,                              tại ba chỗ như trên, lúc đầu, giai đoạn giữa và lúc                              cuối cảm thấy khoái lạc thì phạm tội Ba la di. Hoặc                              nếu hành dâm với loài phi nhân nữ, súc sinh cái                              trong các trường hợp như trên, cũng phạm tội như vậy,                              không được cùng sống chung (với Tăng chúng). Nếu                              Tỳkheo hành dâm với người nam còn sống hay đã chết,                              loài phi nhân nam còn sống hay đã chết, loài súc                              sinh đực còn sống hay đã chết, tại hai chỗ (hậu môn                              và cửa miệng) và vào ba giai đoạn đầu, giữa và cuối                              cảm thấy khoái lạc thì phạm tội Ba la di, không được                              sốâng chung với Tăng chúng. Nếu Tỳkheo hành dâm với                              người hoàng môn (lại cái) còn sống hay đã chết, loài                              phi nhân hoàng môn, còn sống hay đã chết, loài súc                              sanh hoàng môn còn sống hay đã chết, tại hai chỗ,                              vào ba giai đoạn, mà cảm thấy khoái lạc, thì phạm                              tội Ba la di. Nếu Tỳkheo hành dâm với thân con voi,                              ngựa đến thân con gà nhỏ, thì phạm tội Thâu lan giá.                              Nếu... thân con voi nhỏ, cho đến thân con gà lớn,                              thì phạm tội Ba la di. Thế nên nói"cho đến cùng với                              súc sinh phạm tội Ba la di".                               Ba la di:                              Ðối với chánh pháp tâm trí bị lui sụt, đọa lạc không                              đạt được đạo quả, đó gọi là Ba la di. Như vậy là đối                              với các trí như vị trí, đẳng trí, tha tâm trí, khổ                              tập tận đạo trí, tận trí, vô sinh trí, đều bị lui                              sụt, đọa lạc, không đạt được đạo quả, đó gọi là Ba                              la di.                               Ba la di còn có                              nghĩa là:Ðối với Niết bàn bị lui sụt, đọa lạc, không                              chứng đạt được, đó gọi là Ba la di.                               Ba la di còn có                              nghĩa là: Ðối với phạm hạnh bị lui sụt, đọa lạc,                              không đạt được đạo quả, đó gọi là Ba la di.                                                           Ba la di còn có                              nghĩa là: Những tội đã phạm không chịu phát lồ sám                              hối, nên gọi là Ba la di.  Nếu Tỳkheo đem                              cái tâm nhiễm ô để xem phụ nữ thì phạm tội Việt tỳ                              ni, tâm niệm sám hối. Nếu mắt thấy họ, tai nghe                              tiếng họ, thì phạm tội Việt tỳ ni. Còn như cả hai                              lõa thể chạm xúc nhau, thì phạm tội Thâu lan giá.                              Nếu như nam căn đưa vào nữ căn, dù chỉ chạm nhau như                              hạt mè, thì phạm tội Ba la di. Nếunam căn lớn, tuy                              đút vào nhưng chỉ ở ngoài mé nữ căn, thì phạm tội                              Thâu lan giá.Có những chúng sinh chỉ có một đường,                              vừa dùng để ăn uống, vừa để đại tiểu tiện, hoặc còn                              sống, hoặc là đã chết, nếu Tỳkheo hành dâm với họ mà                              cảm thấy lạc thú trong ba giai đoạn đầu, giữa và                              cuối, thì phạm tội Ba la di. Nếu thân người nữ bị                              cắt dọc thành hai phần mà (Tỳkheo) hành dâm nơi mỗi                              phần, thì phạm tội Thâu lan giá. Nếu đem buộc cho                              dính lại thành một rồi hành dâm, thì phạm tội Ba la                              di. Nếu thân người nữ bị cắt làm ba phần: thượng,                              trung, hạ, mà Tỳkheo đến hành dâm hai phần thượng và                              hạ thì phạm tội Ba la di. Nếu hành dâm ở phần trung                              thì phạm tội Thâu lan giá. Nếu hành dâm với thân của                              một người nữ bầm xanh, sình chương, thì phạm tội Ba                              la di. Nếu thân ấy đã hư hoại, thì phạm tội Thâu lan                              giá. Nếu thân ấy còn toàn vẹn nhưng đã phơi khô, thì                              phạm tội Thâu lan giá. Nhưng nếu đem dầu hay nước                              tẩm ướt làm cho tươi nhuận, nguyên vẹn, rồi hành dâm,                              thì phạm tội Ba la di. Còn như đem tẩm ướt mà rã ra                              rồi hành dâm, thì phạm tội Thâu lan giá. Còn như                              hành dâm vào những đốt xương dính vào nhau đầy máu                              huyết, thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu như hành dâm vào                              những đốt xương khô, thì phạm tội Việt tỳ ni. Nếu                              như hành dâm vào tượng phụ nữ bằng gỗ đá, hay bằng                              hình vẽ, thì phạm tội Việt tỳ ni.  Nếu Tỳkheo                              không nói trả giới, không nói không trả giới, hoặc                              vì giới yếu kém mà không nói trả giới, cũng không                              nói không trả giới, rồi làm người thế tục,                              thì tùy theo sự vi phạm mà như pháp trị tội, hoặc                              làm ngoại đạo cũng như thế.  Khi hành dâm                              nếu một người lõa thể, một người có y phục, hoặc cả                              hai cùng lõa thể, nếu nam căn vào trong nữ căn ngang                              mức bằng hạt mè, thì phạm tội Ba la di.  Nếu Tỳkheo                              không trả giới, hoặc vì giới yếu kém mà không cho ai                              biết, rồi mặc đồ thế tục và phạm tội, thì tùy theo                              sự vi phạm mà kết tội.  Nếu Tỳkheo                              cưỡng dâm Tỳkheo ni, thì Tỳkheo phạm tội Ba la di.                              Nếu Tỳkheo ni cảm thấy khoái lạc, thì cũng phạm tội                              Ba la di. Nếu Tỳkheo ni cưỡng dâm Tỳkheo, thì Tỳkheo                              ni phạm tội Ba la di. Nếu Tỳkheo cảm thấy khoái lạc                              cũng phạm tội Ba la di. Nếu Tỳkheo cùng hành lạc với                              Tỳkheo, thì cả hai cùng phạm tội Ba la di. Nếu                              Tỳkheo hành lạc với Sadi, thì Tỳkheo phạm tội Ba la                              di, và Sadi phải bị trục xuất. Nếu Tỳkheo hành lạc                              với người thế tục, thì Tỳkheo phạm tội Ba la di,                              nhưng người thế tục (238a) không phạm. Ðối với ngoại                              đạo cũng thế.  Nếu Tỳkheo                              hành dâm với ba chủng loại: Người, phi nhân, súc                              sinh, với ba giới tính: Nữ, nam, hoàng môn, tại ba                              chỗ: Cửa miệng, đường tiểu tiện và đại tiện, trong                              ba trường hợp: đang thức, lúc ngủ, hoặc thây chết,                              đều phạm tội Ba la di. Nếu Tỳkheo đang ngủ, điên                              cuồng hay nhập định mà có người nữ đến cưỡng dâm,                              rồi Tỳkheo hay biết và có khoái lạc trong ba giai                              đoạn đầu, giữa hay cuối, thì phạm tội Ba la di. Nếu                              Tỳkheo đang ngủ hay nhập định mà có người nữ đến                              cưỡng dâm, Tỳkheo liền hay biết, nhưng lúc đầu không                              thấy khoái lạc, song lúc giữa và lúc cuối thấy khoái                              lạc, thì phạm tội Ba la di. Giá như Tỳkheo lúc đầu,                              lúc giữa không thấy khoái lạc, nhưng lúc cuối thấy                              khoái lạc, thì phạm tội Ba la di. Trái lại, nếu cả                              ba giai đoạn: Ðầu, giữa và cuối đều không thấy khoái                              lạc thì không có tội.   Thế nào                              gọi là cảm thấy khoái lạc?                              Thế nào gọi là                              không cảm thấy khoái lạc?- Khoái lạc nghĩa là như                              người đói mà được các thức ăn ngon, vì người ấy xem                              thức ăn là khoái lạc nhất. Hoặc như người đangkhát                              mà được các thức uống bổ dưỡng, vì người ấy xem thức                              uống là lạc thú nhất. Dục lạc (cái vui của nhục dục)                              cũng như thế.  Không cảm thấy                              khoái lạc nghĩa là: Ví như người đang sạch sẽ mà                              dùng các thứ xác chết buộc vào trên cổ, hoặc như phá                              vỡ mụt nhọt, hay bị thanh sắt nóng đốt thân; không                              thấy khoái lạc cũng như thế.  Nếu Tỳkheo                              hành dâm trong các trường hợp: Hoặc do mua dâm, hoặc                              do thuê bao, hoặc vì ân nghĩa mà được, hoặc do quen                              biết mà được, hoặc do đùa cợt mà được, hoặc do thách                              thức mà được... đều phạm tội Ba la di. Nếu vì tâm                              trí điên cuồng không hay biết, thì không có tội.                              Thế nên nói:                              Nếu Tỳkheo đã thọ giới cụ túc trước chúng Tăng hòa                              hợp, không trả giới, giới yếu kém, không ra khỏi (Tăng                              chúng) mà hành dâm, thậm chí hành dâm với súc sinh                              thì Tỳkheo ấy phạm tội Ba la di, không đưọc sống                              chung (với Tăng chúng)  (Giải                              thích Giới thứ nhất đến đây là hết).                               Bấy giờ đức                              Thế Tôn ở tại thành Tỳ Xá Ly. Sau bữa ăn, Ngài ngồi                              quay mặt về hướng Ðông, lúc bóng xế độ nửa thân                              người, ngày 12 tháng thứ năm của mùa Ðông,sáu năm                              sau khi thành đạo, vì trưởng lão Da Xá con của Ca                              Lan Ðà mà chế giới này. Những gì Phật đã chế thì                              phải tuỳ thuận chấp hành . Ðó gọi là pháp tuỳ thuận.                                                             2. GIỚI: TRỘM CẮP.                               PHẦN THỨ                              NHẤT CỦA GIỚI TRỘM CẮP  Khi Phật an                              trú tại thành Vương Xá, nói rộng như trên... Lúc bấy                              giờ con của người thợ gốm là trưởng lão Ðạt Nị Già (Sudinna)                              đi quyên góp về xây cất tăng phòng cao lớn, trang                              nghiêm đẹp đẽ, rồi điêu khắc,chạm trỗ văn vẻ, lại                              dùng dầu thơm rưới lên nền có màu sắc lưu ly, và bày                              biện (238b) các thức ẩm thực.  Bây giờ có vị                              trưởng lão Tỳkheo đến, hỏi Ðạt Nị Già: "Trưởng lão                              bao nhiêu tuổi?"Ðạt Nị Già đáp: "Tuổi chừng đó".                              Khách Tỳkheo nói: "Thầy còn nhỏ, tôi nên ở trong                              phòng này". Thế rồi Ðạt Nị Già nhường phòng lại cho                              thượng tọa ở rồi đi khuyến hóa về cất một căn phòng                              thứ hai. Lại một trưởng lão Tỳkheo khác đến, thầy                              cũng nhường phòng như trước, rồi đi quyên góp xây                              cất căn phòng thứ ba. Lần này cũng có một trưởng lão                              Tỳkheo khác đến, và thầy cũng nhường phòng như hai                              lần trước.  Khi ấy, Ðạt Nị                              Già suy nghĩ: "Ta trải bao gian khổ xây phòng, nhưng                              không được ở, vậy ta phải tìm cây gỗ và nhân công ở                              đâu để xây lại căn phòng khác? Ta bị mưa gió nóng                              lạnh, muỗi ruồi làm khốn đốn, nên tìm cách xây được                              căn phòng vừa mới hoàn thành, thì kẻ khác đã chực                              sẵn như mèo rình chuột, vừa làm xong là đoạt mất.                              Vậy phải làm sao đây?". Bèn suy nghĩ: "Ta vốn là thợ                              khéo, lại có sức lực, ta nên xây một căn phòng bằng                              gạch trên tảng đá đen bên hang núi của các vị tiên                              nhân, rồi nung cho chín để ở". Khi Ðạt Nị Già suy                              nghĩ thế rồi, bèn xây một căn phòng bằng gạch trên                              tảng đá đen bên hang núi các tiên nhân, rồi nung                              chín thành ngôi nhà, đồng thời chạm trổ và đặt các                              cánh cửa, chỉ trừ cánh cửa, then cửa và giá áo,                              ngoài ra các cái khác đều được nung chín, màu sắc đỏ                              au như Ưu đàm bát.  Lúc bấy giờ,                              sau cơn mưa trời tạnh. Ðức Thế Tôn đang đi kinh hành                              bên triền núi Kỳ Xà Quật. Với Phật nhãn đức Như Lai                              không việïc gì chẳng thấy, không có sự gì chẳng nghe,                              không có điều gì chẳng biết, vì nhân duyên ấy, ngài                              muốn thuyết khế kinh để cho giới luật được tồn tại                              lâu dài. Do đó tuy biết, ngài vẫn hỏi các Tỳkheo: "Trên                              tảng đá đen bên hang núi của các tiên nhân, có vật                              gì giống như hoa Ưu Ðàm Bát kia vậy?".   Các Tỳkheo                              bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn, Tỳkheo Ðạt Nị Già                              trước kia đi khuyến hóa về làm tăng phòng rồi điêu                              khắc chạm trổ cực kỳ trang nghiêm, khi hoàn thành                              thì có vị thượng tọa đến chiếm lấy, thầy bèn làm cái                              thứ hai, thứ ba, lại cũng bị chiếm lấy như trước.                              Thế nên, giờ đây thầy mới xây riêng một căn phòng                              bằng ngói nung chín có màu sắc đẹp đẽ như hoa Ưu Ðàm                              Bát trên tảng đá đen, bên hang núi của tiên nhân kia                              vậy".  Bấy giờ đức                              Thế Tôn bèn bảo A Nan đem y đến cho ngài, A Nan liền                              đem y dâng lên đức Như Lai. Thế rồi, Thế Tôn khoác                              y, đi đến chỗ tảng đá đen bên hang núi của các tiên                              nhân. Vì đức Thế Tôn đã thành tựu tối thắng các oai                              nghi đi, đứng, nằm, ngồi (nên thoạt hiện một cách tự                              nhiên) không cần phải dụng tâm.                              Vì sao vậy? - Vì công đức của hạnh nghiệp tự                              nhiên thù thắng nên chư Thiên, Phạm vương không thể                              sánh bằng, như trong Kinh Oai Nghi đã mô tả đầy đủ.                              Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng oai nghi thù thắng đi                              (238c) đến căn phòng gạch của Ðạt Nị Già. Thiên thần                              bèn làm cho cánh cửa tự mở, tuy căn phòng nhỏ hẹp,                              nhưng đức Như Lai đi vào tự nhiên, không thấy nhỏ                              hẹp chút nào. Khi đức Như Lai vào phòng của Ðạt Nị                              Già xong, bèn dùng bàn tay vàng sờ vào vách tường,                              nói với các Tỳkheo: "Các thầy hãy xem Tỳkheo Ðạt Nị                              Già đã trang hoàng căn phòng này thật khéo léo.                              Tỳkheo Ðạt Nị Già này tuy đã xuất gia mà vẫn chưa                              chán nghề nghiệp thuở trước, chưa chịu từ bỏ những                              kỹ thuật khéo léo, lại còn nung đốt căn phòng làm                              thương tổn chúng sinh. Vả lại căn phòng gạch này khi                              lạnh thì rất lạnh, khi nóng thì rất nóng, có thể làm                              hư mắt người ta, khiến người ta sinh nhiều bệnh. Vì                              có những điều bất tiện như thế, nên các thầy phải                              phá nó đi, chớ để sau này các Tỳkheo lại bắt chước                              làm kiểu phòng ấy. Vì tương lai các Tỳkheo sẽ bảo: "Khi                              Thế Tôn còn tại thế, các Tỳkheo mỗi người tự làm                              phòng để ở, do đó cần phải phá bỏ". Thế rồi các                              Tỳkheo bèn đập bỏ căn phòng ấy.  Ðức Thế Tôn                              sai đập bỏ căn phòng ấy xong, liền trở về nuí                              Kỳ-xà-quật .  Khi trưởng lão                              Tỳkheo Ðạt Nị Già từ thôn xóm khất thực trở về, thấy                              căn phòng mình đã bị đập phá, bèn hỏi các Tỳkheo:                              "Ai phá căn phòng này?".   Lúc ấy có một                              Tỳkheo nói với Ðạt Nị Già: "Nay thầy được lợi ích                              rất lớn. Vì sao vậy? - Vì đức Như Lai đã hạ cố đến                              căn phòng này, thầy nhờ căn phòng này mà được hưởng                              phước lây. Ðức Thế Tôn biết thời, nên đã sai người                              đập phá căn phòng này".   Khi Ðạt Nị Già                              nghe như thế, thầy hoan hỷ cực độ, nên suốt cả bảy                              ngày quên hết đói khát. Nhưng sau bảy ngày, thầy                              liền suy nghĩ: "Ta biết tìm cây gỗ ở đâu để xây lại                              căn phòng mới, viên quan kiểm lâm của Vua Bình Sa là                              Da Thâu Ðà vốn là bạn cũ của ta, ắt có cây gỗ". Nghĩ                              thế thầy bèn khoác y thường mặc, cầm bát đi đến nhà                              Da Thâu Ðà, ủy lạo rằng: "Ông không bệnh, trường thọ                              chứ? Tôi muốn cất một căn phòng mà chưa có cây gỗ,                              ông có thể ủng hộ cây gỗ được không?".   Viên đại thần                              đáp: "Nhà tôi không có cây, mà cây của vua cũng hết                              cả, khi nào gỗ chở đến tôi sẽ cấp cho thầy".                               Ðạt Nị Già                              liền nói: "Chớ nói như thế, lẽ nào cây của vua mà                              lại hết được?".   Viên đại thần                              lại nói: "Tôn giả, nếu thầy không tin, hãy thân hành                              đến xem".  Bấy giờ Ðạt Nị                              Già liền đến chỗ vườn cây, trông thấy năm cây gỗ lớn,                              bèn chọn lấy hai cây đem về phòng. Theo phép cũ của                              Tiên vương, cứ năm ngày vua phải đi tuần hành quan                              sát kho lẫm, kho chứa vàng bạc, nơi cung nhân cư trú,                              các chuồng voi ngựa, nhà để xe cộ, kế tiếp đi đến                              nơi cất các cây gỗ, vua thấy thiếu mất hai cây liền                              hỏi Da Thâu Ðà: "Các cây gỗ vì sao (239a) thiếu mất                              hai cây?".   Da Thâu Ðà đáp:                              "Tâu Ðại vương! Tất cả đều còn chứ đâu có thiếu".                               Như vậy vua đi                              tuần hành lần thứ hai, lần thứ ba, đều hỏi Da Thâu                              Ðà vì sao thiếu mất hai cây gỗ, nhưng Da Thâu Ðà đều                              tâu với vua còn đủ chứ không có thiếu. Vua liền nổi                              giận nói: "Chẳng phải ngươi đã đốt cây gỗ của ta sao?                              Hay là đã đem gỗ của ta cho nước địch?".  Liền ra lệnh                              quan hữu ty bắt trói Da Thâu Ðà. Da Thâu Ðà bị bắt                              trói liền suy nghĩ: "Gần đây tôn giả Ðạt Nị Gia từng                              đến xin cây mà không có, hay đã lấy đi chăng?".Ông                              liền sai người tín cẩn đến hỏi Ðạt Nị Gia: "Thưa tôn                              giả, thầy từng đến xin cây, vậy thầy có lấy hai cây                              gỗ kia đi chăng?".   Tôn giả đáp: "Có                              lấy đi".   Da Thâu Ðà lại                              sai sứ giả đến bạch với tôn giả rằng: "Vì tôi để mất                              cây gỗ nên bị bắt giam vào ngục, tôn giả hãy dùng                              phương tiện gì biện bạch khỏi phạm lỗi để tôi sớm ra                              khỏi lao tù".   Ðạt Nị Gia                              liền thông báo lại rằng: "Ông chỉ cần tâu với vua là                              trước đây Tỳkheo Ðạt Nị Già có đến tôi xin cây, hay                              là ông ta đã lấy đi, xin hãy ra lệnh tra xét".                               Vua liền sai                              sứ gọi Ðạt Nị Già, Ðạt Nị Già bèn đến triều khuyết.                              Trưởng lão Ðạt Nị Già vốn là người đoan chính, dung                              nghi thanh nhã, trời, người đều tôn kính, nên vua                              vừa trông thấy đã hoan hỷ, bèn hỏi thầy: "Tôn giả                              Ðạt Nị Già, thầy không lấy hai cây gỗ của trẫm đấy                              chứ?".  Tôn giả đáp: "Tôi                              có lấy".  Vua hỏi: "Tôn                              giả, vì sao người xuất gia mà lấy của người ta không                              cho?".  Ðạt Nị Già                              nói: "Ðại vương trước kia đã hứa cho chứ không phải                              không cho".  Vua hỏi: "Ai                              cho?".  Ðáp: "Ðại                              vương chứ ai?"  Vua nói: "Thưa                              tôn giả! Trẫm là vua một nước nhiều bận rộn nên                              không nhớ được, xin thầy nhắc lại, thế nào là hứa                              cho?".  Ðạt Nị Già                              nói: "Ðại vương không nhớ khi mới lên ngôi, các quan                              đại thần trong triều tập họp lại, đi lấy nước của                              các ao hồ sông suối đem về rưới lên các mầm cây và                              dược thảo, lại đổ nước ấy trong ngà voi trắng, đem                              rót trên đầu đại vương, tôn đại vương lên ngôi báu.                              Lúc ấy chính từ miệng đại vương tuyên bố: "Nay trẫm                              là vua, tất cả cây cỏ, nước non trong xứ đều bố thí                              Sa môn Bà la môn. Ðó là vua đã chochứ không phải                              không cho".  Vua nói: "Tôn                              giả! Trẫm cho những vật trong nước không có người                              gìn giữ, chứ không phải cho những vật có người gìn                              giữ. Sao thầy dám xuyên tạc những lời trước kia,                              ngụy biện, vu khống ta".  Thế rồi, vua                              hạ lệnh thả Da Thâu Ðà ra. Những Bà la môn và thiện                              nam tín nữ trong nước đều hoan hỷ, nói: "Lành thay                              tôn giả Ðạt Nị Già, đã dùng phương tiện trí tuệ khéo                              léo đáp đại vương mà thoát khỏi tội hôm nay. Vua lại                              còn hạ lệnh cho Da Thâu Ðà an ổn ra khỏi lao ngục".                              Khi ấy, tại                              thành Vương Xá, những kẻ không tin Phật phápđều oán                              hận bảo?"Vì sao ông Sa môn Ðạt Nị Già này lại tráo                              trở, ngụy biện lừa dối nhà vua để (239b)khỏi mắc tội?                              E rằng từ nay trở đi những cây cối trong nhà của                              chúng ta cũng sẽ bị ông ta lấy đem đi, rồi bảo rằng                              trước kia vua đã hứa cho. Phải làm sao đây? Ðó là kẻ                              đồi bại, nào có đạo hạnh gì!".   Các Tỳkheo                              liền đem những lời dị nghị ấy bạch đầy đủ lên Thế                              Tôn. Phật liền bảo đi gọi Tỳkheo Ðạt Nị Già đến. Khi                              thầy đến rồi, Phật hỏi: "Có thật thầy lấy cây gỗ của                              nhà vua chăng?"  Ðáp: "Có lấy                              thật!".  Phật nói: "Thầy                              là người xuất gia, vì sao vật của người ta không cho                              mà lấy?".   Ðạt Nị Già đáp:                              "Bạch đức Thế Tôn, trước kia nhà vua có hứa cho chứ                              không phải không hứa cho".  Phật hỏi: "Vua                              cho thế nào?"  Ðạt Nị Già đáp:                              "Lúc vua mới lên ngôi, chính miệng vua tuyên bố:                              Những nước non cây cỏ trong quốc độ, trẫm bố thí cho                              Samôn, Bàlamôn. Ðó là hứa cho chứ không phải không                              hứa cho".   Phật bảo: "Ngươi                              là người ngu, vua cho vật không có người giữ,chứ                              không phải cho vật có người giữ. Nay những cây gỗ                              của vua có người giữ vì sao bảo là cho? Ðạt Nị Già,                              thầy há không nghe ta dùng nhiều nhân duyên khiển                              trách trường hợp không cho mà lấy, và khen ngợi các                              trường hợp cho rồi mới lấy đó sao? Vì sao nay thầy                              lại lấy của không cho? Ðạt Nị Già, đây là điều phi                              pháp, phi luật, chẳng phải điều ta dạy, việc này                              không thể làm tăng thêm thiện pháp được".                              Các Tỳkheo                              liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao Tỳkheo Ðạt                              Nị Già này lần đầu tiên phạm tội không cho mà lấy?"                              Phật bảo các                              Tỳkheo : "Ông Ðạt Nị Già này không những ngày nay                              đầu tiên phạm tội không cho mà lấy, mà trong đời quá                              khứ cũng đã từng phạm tội không cho mà lấy đầu tiên".  Các Tỳkheo                              bạch với Phật: "Ðã từng có thế sao?"  Phật nói: "Ðúng                              như thế. Trong thời quá khứ, lúc thế giới này đến                              thời kiếp tận, các chúng sinh sinh lên cõi trời                              Quang Âm. Khi thế giới hoàn thành, chư thiên cõi                              Quang Âm xuống lại thế gian. Lúc ấy chư Thiên đi lại                              trên hư không lấy niềm vui thiền định làm thức ăn,                              du hành đây đó, sống đời khoái lạc, thuần thiện, ánh                              sáng của thân thể chói rọi lẫn nhau, không cần đến                              ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Khi ấy chúng sinh                              không có ngày đêm, mặt trời, mặt trăng và năm tháng                              thời tiết. Khi nước vừa rút thì vị đất liền sinh như                              vị cam lồ của cõi trời. Bấy giờ có một chúng sinh                              thô tháo tham trước mùi vị, nếm vị đất đó thấy có                              mùi thơm ngon lành, tâm liền sanh đắm trước. Các                              chúng sinh khác bắt chước nếm thử cũng cảm thấy ngon                              lành, nên cùng lấy ăn. Ăn rồi thân thể nặng nề, mất                              hết thần thông, ánh sáng tắt ngúm. Do đó, thế gian                              mới có mặt trời, mặt trăng, tối sáng, năm tháng,                              thời tiết.  Bấy giờ, chúng                              sinh chẳng phải nam, chẳng phải nữ, nhưng ăn vị đất                              lâu ngày hình sắc thành ra sai khác. Những ai ăn                              nhiều thì sắc thân thô xấu. Những ai ăn ít thì sắc                              thân đoan chính. Khi ấy, những kẻ đoan chính tự cho                              mình hơn người (239c), thấy kẻ thô xấu khinh họ                              không bằng mình, ỷ mình đoan chính nên sinh ra kiêu                              mạn. Vì sinh tội kiêu mạn, nên vị đất biến mất. Thế                              rồi, đất sinh ra váng mùi vị như mật nguyên chất.                              Bấy giờ các chúng sinh đều kinh hãi than rằng: Vì                              sao vị đất bỗng nhiên biến mất, bèn cùng nhau ăn                              váng đất, những ai ăn nhiều thì hình sắc thô xấu,                              còn những kẻ ăn ít thì thân sắc đoan chính. Rồi                              những kẻ đoan chính tăng thêm kiêu mạn. Vì thế váng                              đất lại biến mất. Khi váng đất đã biến mất, đất lại                              sinh ra loại nấm, vị như đường phèn. Những ai ăn                              nhiều thì xấu xí, những kẻ ăn ít thì đẹp đẽ, lại                              cũng như trước, người đoan chính sinh kiêu mạn càng                              nhiều. Do thế, nấm đất lại bỗng nhiên biến mất, và                              đất tự nhiên hóa sinh lúa nếp. Loại lúa nếp này lấy                              rồi lại có, không hề tăng giảm, lấy buổi mai, buổi                              chiều lại có, lấy buổi chiều, buổi mai có lại.                               Các Tỳkheo nên                              biết! Khi chúng sinh thấy váng đất biến mất liền                              sinh sầu não, giống như kẻ trượng phu bị sầu não bức                              bách. Mặc dù bị sầu não bức bách, nhưng họ không                              biết là tội lỗi do mình. Thế rồichúng sinh lại ăn                              loại lúa nếp tự nhiên ấy. Ăn lúa nếp lâu ngày dần                              dần sinh ra thân hình nam nữ, rồi nhiễm trước nhau,                              khởi lên dâm dục, thành ra vợ chồng. Các chúng sinh                              khác thấy thế giận dữ đánh đập, ném đá, nguyền rủa:                              "Vì sao thế gian bỗng sinh ra điều phi pháp? Việc ấy                              không phải là pháp được sinh lên trời. Từ nay trở đi                              phải tu thiện pháp để được sinh lên trời".                               Phật bảo các                              Tỳkheo: "Khi ấy, những chúng sinh làm điều phi pháp                              cảm thấy hổ thẹn, ô uế, ẩn thân, không xuất đầu lộ                              diện, hoặc một ngày, hai ngày cho đến một tháng. Vì                              thế, họ xây cất phòng ốc để che khuất kín đáo mà làm                              điều phi pháp. Lúc ấy, chúng sinh bèn suy nghĩ: "Vì                              sao chúng ta phải lao khổ suốt ngày, chi bằng buổi                              sớm ta lấy lúa về dùng cho cả ngày mai". Thế rồi,                              ngày mai có chúng sinh khác đến rủ người ấy cùng đi                              lấy lúa, thì người ấy đáp: "Hôm qua tôi đã lấy luôn                              phần hôm nay rồi". Kẻ kia nói: "Ðó quả là điều tốt".                              Rồi bắt chước lấy một lần cho cả mười ngày, hai mươi                              ngày, một tháng, hai tháng. Vì lòng tham tích trữ,                              nên lúa nếp sinh ra trấu cám, chỗ nào buổi mai gặt                              thì buổi chiều không sinh lại.   Bấy giờ chúng                              sinh bèn hội họp lại bảo nhau: "Chúng ta ngày xưa                              đều tự nhiên bay đi, lấy niềm vui thiền định làm                              thức ăn, khoái lạc, an ổn, rồi chúng ta ăn vị đất,                              nhưng lúc ấy trong chúng sinh chưa có ác pháp. Ðến                              khi ác pháp sinh khởi thì vị đất biến mất, và sinh                              ra váng đất. Váng đất sinh ra có hương vị thơm ngon.                              Tiếp đến đất sinh ra nấm, rồi lại sinh ra lúa nếp                              vẫn còn thơm ngon. Ngày nay chúng ta phải lập ra                              định chế, chia những đám ruộng lúa ra thành bờ ngăn                              (240a) rồi giao cho nhau: Phần này thuộc về tôi,                              phần kia thuộc về bạn. Nhưng bấy giờ có một chúng                              sinh suy nghĩ thế này: "Nếu ta tự lấy phần mình thì                              không bao lâu sẽ hết, vậy ta hãy lấy một ít phần của                              người để phần của ta còn được lâu dài". Những chúng                              sinh khác thấy chúng sinh này lấy của không cho,                              liền nói với y: "Vì sao vật người ta không cho mà                              ngươi lại lấy? Chớ có làm thế nữa". Nhưng chúng sinh                              ấy vẫn lấy, không thôi, chúng sinh kia bắt gặp y lấy                              trộm đến lần thứ ba liền bảo: Vì sao chúng sinh lại                              có kẻ trộm cắp cho đến lần thứ ba? Từ nay trở đi,                              nếu ngươi còn trộm cắp thì phải bị trừng phạt". Thế                              nhưng y vẫn không chừa. Người kia bắt được liền dùng                              roi gậy đánh y thật đau, y bị ăn đòn, bèn kêu lớn: "Vì                              sao thế gian lại có ác pháp này, khiến chúng sinh                              này dùng gậy đánh chúng sinh kia?". Khi ấy người                              đánh liền ném gậy xuống đất và cũng kêu lớn lên: "Vì                              sao thế gian lại có thứ ác pháp ấy? Do đâu có người                              lấy vật mà người ta không cho, và càng nói càng                              không biết xấu hổ?". Từ đó thế gian có ba ác pháp                              xuất hiện, đó là:                               1.- Không cho mà                              lấy.  Ðó là ba ác                              pháp xuất hiện sớm nhất.  Phật bèn nói                              với các Tỳkheo: "Khi ấy, chúng sinh lấy của không                              cho đầu tiên nào phải ai khác mà chính là Tỳkheo Ðạt                              Nị Già con người thợ gốm này đây. Ông Ðạt Nị Già này                              từ quá khứ lấy của không cho đầu tiên, ngày nay ở                              trong chánh pháp của ta, lại cũng là người đầu tiên                              lấy của không cho".  Bấy giờ các                              Tỳkheo liền bạch với Phật rằng: "Vì sao Tỳkheo Ðạt                              Nị Già này mang ân Thế Tôn được khoác áo cà sa khiến                              vua Bình Sa thấy thầy liền thả đi?".  Phật dạy: "Ðúng                              thế. Này các Tỳkheo, Tỳkheo Ðạt Nị Già đây không                              những ngày nay nhờ khoác áo cà sa của ta nên thoát                              khỏi tội mà trong thời quá khứ cũng đã từng mang ơn                              ta mới được độ thoát. Ðó là: Lúc bấy giờ, bên bờ đại                              hải có một cây Viên bà lợi, trên cây có con chim                              cánh vàng (Kim sí điểu) to lớn, hai cánh cách nhau                              tới 150 do tuần. Cách sống của chim cánh vàng là                              dùng rồng làm thức ăn. Khi muốn ăn thịt rồng trước                              hết nó dùng đôi cánh quạt mạnh trên biển, khiến nước                              hai bên vẹt ra, thân rồng xuất hiện, liền bắt lấy ăn                              thịt. Theo truyền thống của loài rồng là sợ chim                              cánh vàng, nên thường tìm áo cà sa treo ở trước cửa                              cung. Chim thấy áo cà sa sinh lòng cung kính, nên                              không tiến vào bắt ăn các loài rồng ấy. Bấy giờ con                              chim đó dùng cánh quạt nước biển, thấy được rồng                              muốn ăn thịt. Con rồng rất kinh hãi liền dùng chiếc                              ca sa khoác lên đỉnh đầu, lên bờ chạy trốn. Lúc đó                              nó (240b) hóa ra hình người, con chim cánh vàng hóa                              ra hình Bà la môn đuổi theo con rồng đó và mắng rằng:                              "Sao ngươi không chịu vứt cà sa đi?" Con rồng đó sợ                              chết, giữ chặt chiếcáo cà sa, dù chết cũng không                              chịu bỏ.   Bấy giờ trên                              hải đảo có vị tiên nhân cư trú, nơi đây có hoa trái                              sum xuê, lúc đó con rồng quá sợ hãi mà không có chỗ                              nào nương tựa, liền chạy đến chỗ cư trú của tiên                              nhân. Vị tiên nhân này có uy đức lớn nên chim cánh                              vàng không dám bay vào mà từ xa hướng đến tiên nhân                              đọc kệ:                               "Con rồng ác                              nghiệt kia  Lúc bấy giờ                              tiên nhân suy nghĩ: "Ai đọc kệ đó nhỉ?"Liền đứng dậy                              bước ra xem, thấy con rồng kia bị chim cánh vàng                              rượt đuổi, bèn đọc kệ đáp chim cánh vàng:                               "Mong ngươi được                              trường thọ,  Khi ấy chim                              cánh vàng nhờ uy đức của tiên nhân liền hết đói khát.                              Thế rồi, tiên nhân nói với chim cánh vàng: "Vì ngươi                              phạm giới nên mới mang thân chim này, nay lại muốn                              sát sinh, ắt phải đọa địa ngục (nói rõ mười điều ác                              cho đến tà kiến). Như vậy, mỗi mỗi đều phải đọa địa                              ngục, súc sanh, ngạ quỷ và a tu la. Nay ngươi nên                              cùng với con rồng này sám hối để sau này không thù                              oán nhau nữa". Chúng liền sám hối. Sám hối xong mỗi                              con đều trở về chỗ cũ.  Phật liền bảo                              các Tỳkheo: "Thuở ấy vị tiên nhân kia nào phải ai                              khác mà chính là ta đây. Con chim cánh vàng là vua                              Bình Sa, con rồng là Tỳkheo Ðại Nị Già, Tỳkheo Ðạt                              Nị Già này ngày xưa nhờ áo cà sa của ta mà thoát nạn                              chim cánh vàng, ngày nay cũng lại nhờ áo cà sa của                              ta mà thoát khỏi vương nạn".   Khi ấy các                              Tỳkheo bạch với Phật rằng: "Vì sao vua Bình Sa kia                              thấy Tỳkheo Ðại Nị Già này liền thả cho đi?".                              Phật nói với                              các Tỳkheo: "Không những ngày nay mà xưa kia đã từng                              có vậy".   Các Tỳkheo                              bạch với Phật: "Ðã từng có như vậy sao?".  Phật dạy: "Ðúng                              thế. Trong thời quá khứ có một vị vua khéo giáo hóa                              người và vật khiến chúng lìa xa thù oán, ngũ cốc                              phồn vinh, dân chúng an lạc, sống có tiết nghĩa ân                              tình, nhân đức hiếu thuận, bố thí, giữ giới. Bấy giờ                              trong nước ấy có tên thợ săn voi, nhà y nghèo cùng,                              lại sinh nhiều (240c) con, các con y xúm nhau đòi ăn,                              đòi uống. Khi ấy vợ người thợ săn bảo chồng: "Nhà ta                              nghèo khổ cơ hàn thế này, sao ông không siêng năng                              làm ăn?".  Thợ săn trả                              lời: "Bà muốn tôi làm việc gì?"  Người vợ đáp:                              "Vì sao không siêng năng làm nghề của ông cha?"                              Khi ấy người                              thợ săn bèn chuẩn bị lương thực mang theo dụng cụ                              săn bắn, đến bên núi Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ ở chân                              núi có con voi trắng sáu ngà, vốn là một con voi có                              trí tuệ, liền suy nghĩ: "Vì lý do gì mà người ta                              muốn giết hại ta? Tại vì muốn lấy ngà nên họ mới                              giết ta?". Lúc ấy, con voi này khi tổ tiên chết, nó                              nhặt lấy ngà đem cất tại một chỗ, đến khi cha chết                              nó lại lấy ngà đem cất cùng chỗ, rồi tách khỏi đàn                              voi, thong thả đi kiếm ăn. Bấy giờ người thợ săn lần                              lượt đi săn bắn, qua các núi rừng, rồi đến chỗ voi.                              Voi thấy thợ săn liền khởi suy nghĩ: "Kẻ trượng phu                              kia là ai mà lại đến đây, há chẳng phải là thợ săn                              muốn đến giết ta sao?". Liền đưa vòi lên tỏ ý vời                              gọi thợ săn.   Thợ săn vốn là                              người hiểu rõ tướng voi, nên nghĩ: "Nếu ta không đến                              nó ắt hại ta", liền đến chỗ voi, voi liền hỏi: "Ngươi                              đến đây cầu việc gì?". Thợ săn bèn nói ý mình với nó.                              Voi liền nói: "Nếu ngươi không đến đây nữa, ta sẽ                              cung cấp cho ngươi những gì ngươi cần". Thợ săn liền                              đáp: "Nếu ta được những gì cần thiết, ta còn không                              muốn ra khỏi cửa, huống gì đến đây". Bấy giờ voi                              liền đem ngà của tổ tiên ra cho thợ săn. Thợ săn                              nhận được rồi, hoan hỷ trở về cố quốc. Thế rồi y                              liền suy nghĩ: "Ta đem số ngà voi này về lo việc ăn                              mặc cho vợ con ắt chẳng được bao lâu, ta nên tìm chỗ                              vắng vẻ mà ở để hưởng thụ một mình. Nếu takhỏe mạnh                              sẽ có vợ con. Thế rồi một buổi sáng y cần có năm                              tiền, bèn mang số ngà voi kia đến một quán rượu.                               Khi chủ quán                              thấy y đi đến, liền suy nghĩ: "Người này từ đâu đến                              vậy? Hôm nay ta ắt được một ít lợi lộc", bèn sửa                              giường nệm để đợi người vác ngà voi kia đến, rồi mời                              y ngồi. Thừa lúc y đang đói khát, chủ quán liền                              chuốc rượu cho say, say rồi bèn bắt ghi sổ nợ, số                              rượu thì rất ít mà số nợ thì rất nhiều.   Ngày hôm sau                              tỉnh cơn say, y lại đòi rượu, chủ quán rượu liền                              nói: "Vì sao ông còn đòi nữa? hình như ông chưa                              hiểu, vậy chúng ta hãy cùng nhau tính sổ, nếu còn                              thừa tiền tôi sẽ đưa rượu". Nhưng khi kế toán xong,                              không còn dư một đồng ten. Anh ta bèn suy nghĩ: "Ta                              biết tìm đâu để có được tiền? hay là ta lại vào núi                              giết con voi ấy".   Rồi y trở vào                              núi đến chỗ voi ở, con voi thấy tên thợ săn, liền                              hỏi: "Vì sao ông còn đến đây?".   Người thợ săn                              bèn nói rõ ý mình với voi. Voi liền hỏi: "Những thứ                              tôi đưa ông lúc trước, giờ đây đâu rồi?".                               Y đáp: "Vì tôi                              vô trí sinh ra phóng dật, nên đã dùng hết".                               Voi (241a)                              nói: "Nếu ông không còn phóng dật nữa, tôi sẽ cho                              ông". Thợ săn đáp: "Ta đã hối hận việc làm trước                              đây, lẽ nào còn tái phạm nữa. Nếu voi cho tôi lần                              nữa, tôi sẽ không ra khỏi cửa".   Voi lại đem số                              ngà của cha ra cho y. Thợ săn liền mang ngà voi về                              nước và cũng đem dùng bừa bãi hết sạch như trước,                              rồi suy nghĩ: "Ta phải giết con voi ấy, lần này tới                              đó đừng để nó thấy ta".   Vào tháng cuối                              xuân khí trời nóng bức con voi ấy xuống ao tắm, tắm                              xong lên bờ, đang nằm nghỉ mát dưới gốc cây, trước                              dàn voi. Bấy giờ thợ săn bèn dùng tên có tẩm thuốc                              độc bắn con voi ấy, trúng vào vai nó, máu chảy thấm                              vào mắt. Con voi ngẩng đầu lên xem thử tên từ đâu                              đến, liền thấy tên thợ săn, bèn từ xa trách y:                              "Ngươi là quân tệ ác, lòng dạ phản phúc, sức ta giờ                              đây có thể giết ngươi, nhưng vì kính trọng cà sa nên                              ta không giết, bèn gọi thợ săn: "Người hãy đến nhanh                              cắt lấy ngà ta". Rồi dùng thân che chở tên thợ săn                              ấy không để những con voi khác làm hại.   Lúc ấy trong                              rừng có một thiên thần, đọc bài kệ rằng:                               "Trong không lìa                              si ám.  Phật bảo các                              Tỳkheo: "Con voi chúa thuở ấy nào phải ai khác đâu                              mà chính là vua Bình Sa ngày nay vậy. Còn người thợ                              săn ngày nay là Tỳkheo Ðạt Nị Già này dây. Vua Bình                              Sa vì tôn kính cà sa nên đã tha thứ người thợ săn                              ấy. Ngày nay lại vì Ðạt Nị Già khoác y cà sa nên                              không bắt tội".  Các Tỳkheo lại                              bạch Phật rằng:  - Bạch Thế                              Tôn! Vì sao vua Bình Sa này thấy Ðạt Nị Già uy nghi                              tề chỉnh, không khởi ác tâm?  Phật bảo các                              Tỳkheo: "Vua Bình Sa này không chỉ có ngày nay mới                              quý trọng uy nghi, không khởi ác tâm mà ngày xưa đã                              từng có".  Các Tỳkheo                              bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn đã từng có vậy sao?"                              Phật dạy:                               - Ðúng như                              vậy. Trong thời quá khứ có một vì vua khéo giáo hóa                              dân chúng và mọi vật xa lìa sự thù oán, trong nước                              ngũ cốc phồn thịnh, dân chúng an lạc, sống có tiết                              nghĩa ân tình, nhân đức, hiếu từ, bố thí, giữ giới.                              thương yêu khắp người vật. Nhà vua có một thớt voi                              tên là Ðại Thân, hung ác khó điều phục, uy danh vang                              khắp xa gần. Khi ấy các nước địch không nước nào                              đương cự nổi, nếu có chỗ nào phải chinh phạt thì                              quân giặc bị đánh tan tành. Nếu có kẻ nào vi phạm                              vương pháp đều khiến con voi này dùng chân chà chết.                              Vì vua có voi ấy nên ỷ lại không sợ. (Nhưng một hôm)                              chuồng voi bị hư (241b) voi liền phóng chạy đến bên                              cạnh một Tinh xá trông thấy các Tỳkheo uy nghi tề                              chỉnh, lại nghe lời tụng kinh rằng: "Sát sinh chịu                              khổ, không giết được phước". Voi nghe lời Kinh ấy,                              tâm trở nên nhu thuận. Bấy giờ có kẻ phạm pháp đáng                              tội chết, vua ra lệnh quan hữu ty khiến voichà chết.                              Nhưng voi dùng mũi ngửi tội nhân ba lần mà không có                              tâm giết hại. Viên quan giám sát liền đem việc ấy                              tâu lên vua rằng: "Voi thấy tội nhân chỉ dùng mũi                              ngửi mà hoàn toàn không có ý giết hại".   Vua nghe lời                              ấy rất lấy làm ưu sầu, bèn hỏi lại viên quan kia                              rằng: "Voi làm như thế thật sao?".   Vị ấy đáp:                              "Thật như thế!".   Vua liền mời                              các đại thần đến họp bàn việc ấy. Ðại thần tập họp                              xong, vua nói với họ: "Nay ta làm vua, không ai                              thắng nổi, chính là nhờ con voi này, nay bỗng nhiên                              nó lại như thế, phải làm sao đây?".   Bấy giờ các                              đại thần bèn gọi người quản tượng đến hỏi: "Gần đây,                              chuồng voi bị hư, voi đi đến nơi nào?". Người quản                              tượng đáp: "Ðến tại tinh xá". Các đại thần vốn thông                              minh, đoán rằng: "Con voi này thấy các Tỳkheo, ắt                              được nghe Kinh pháp, tâm ý nhu nhuyến, không muốn                              sát sinh", bèn bảo tên quản tượng làm các nhà đánh                              bạc, lò sát sinh, nhà tù bên cạnh chuồng voi, để voi                              ở gần các nhà ấy. Thế rồi, voi thấy người dánh bạc                              thì mở to mắt, múa tay, cất tiếng kêu lớn, thấy kẻ                              đồ tể thì tàn sát súc vật, thấy chủ ngục thì tra                              khảo kềm kẹp. Voi thấy thế rồi, ác tâm sinh trở lại,                              nên khi vua bỏ tội nhân vào chuồng, voi liền chà                              chết. Lúc ấy chư Thiên liền nói kệ:                               "Voi thấy thiện                              giới Luật,  Phật bảo với                              các Tỳkheo:  - Con voi lớn                              thuở ấy nào phải ai khác đâu mà chính là vua Bình                              Sa. Vua Bình Sa trong đời trước từng thấy Tỳkheo uy                              nghi tề chỉnh, lòng sinh yêu mến hoan hỷ, nay Thấy                              Ðạt Nị Già uy nghi tề chỉnh, lòng rất hoan hỷ nên                              không hỏi tội. Khi ấy Ðạt Nị Già liền suy nghĩ: "Ta                              làm căn phòng thứ nhất thượng tọa lại đến chiếm lấy,                              đuổi ta ra đi, đến căn phòng thứ hai, thứ ba ta cũng                              bị đuổi đi, sau đó ta xây căn phòng bằng gạch nung                              thì Thế Tôn sai người đập phá. Ta lại lấy cây gỗ của                              vua đem về làm nhà, lại bị đức Thế Tôn khiển trách                              đủ điều. Thật là uổng công gian khổ, chẳng được việc                              gì! Từ nay trở đi ta chấm dứt việc lao khổ này,                              nương vào (241c) chúng Tăng, vui khổ qua ngày".                              Thế rồi Ðạt Nị                              Già tập hạnh vô sự, ngày đêm tinh thành chuyên tu                              đạo nghiệp, được các thiền định, thành tựu đạo quả,                              đắc sáu thần thông, biết mình đã chứng, lòng đầy                              phấn khích. Ðạt Nị Già nói kệ an ủi mình:                               "Muốn hưởng niềm                              vui thiền,  Bấy giờ Phật                              bảo các Tỳkheo:  - Hãy bảo các                              Tỳkheo xung quanh thành Vương Xá tập họp hết về đây,                              dù cho những ai đã nghe rồi, cũng phải nghe lại:                              -"Nếu                              Tỳkheo lấy của mà người ta không cho thì phạm tội Ba                              la di, không được sống chung (với Tăng chúng)".                              Lại nữa, khi                              Phật ở tại thành Vương Xá (nói rộng như trên) có một                              Tỳkheo, đến giờ liền khoác y, cầm bát vào thành tìm                              y phấn tảo, nhưng tìm khắp thành Vương Xá mà không                              được rồi đến ven sông tìm cũng không được, cuối cùng                              đến chỗ giặt y để tìm. Khi ấy, người thợ giặt, giặt                              áo xong, liền đến một chỗ khuất nói chuyện với người                              khác.   Bấy giờ Tỳkheo                              đến chỗ phơi áo, có một người đàn ông khác trông                              thấy bèn nói với người thợ giặt: "Người xuất gia kia                              muốn lấy áo của ông đấy". Thợ giặt hỏi: "Người xuất                              gia ấy theo đạo nào?".   Ðáp: "Xuất gia                              theo dòng họ Thích".   Người thợ giặt                              nói: "Khỏi lo, Samôn con dòng họ Thích hễ của người                              ta không cho thì không lấy". Trong chốc lát, Tỳkheo                              bèn lấy áo ấy. Và người đàn ông kia lại nói với                              người thợ giặt: "Samôn đã lấy áo của ông rồi".                               Người thợ giặt                              cũng vẫn đáp như trước: "Khỏi lo Samôn con dòng họ                              Thích hễ của người ta không cho thì không lấy".                              Khi ấy thầy                              Tỳkheo bèn kẹp những chiếc áo đó mang đi. Người đàn                              ông kia lại nói với người thợ giặt: "Samôn con dòng                              họ Thích đã đem áo đi rồi".   Người thợ giặt                              liền đi tới xem, thì than ôi! Quả thật thầy đã lấy                              mang đi, bèn chạy theo gọi: "Tôn giả, tôn giả, áo ấy                              là của vua, của đại thần kia, của trưởng giả nọ, cái                              nào cũng có chủ cả, xin tôn giả chớ mang đi".                               Tỳkheo cố ý                              mang đi, không chịu bỏ lại.   Người thợ giặt                              liền mắng: "Kẻ Samôn có hành vi bại hoại, nếu không                              trả áo cho ta, ta sẽ trị ngươi như vậy, như vậy                              đó".   Tỳkheo cầm áo                              về đến trú xứ, mở cửa, để áo lên giường, (242a) đóng                              cửa, ngồi thiền.   Bấy giờ người                              thợ giặt mang theo năm thứ tro đi vào Kỳ hoàn, các                              Tỳkheo khác đang đi kinh hành trước cửa tinh xá Kỳ                              hoàn, hoặc đang tịnh tọa tư duy liền hỏi người thợ                              giặt: "Vì sao ông kêu la om sòm như thế?". Người thợ                              giặt đáp: "Hôm nay tôi bị mất áo, vì sao lại hỏi tôi                              vô cớ kêu la lớn tiếng?".   Các Tỳkheo                              hỏi: "Ai lấy áo của ông đem đi".   Y đáp: "Người                              xuất gia".   Họ bèn hỏi:                              "Xuất gia theo đạo nào?"  Y đáp: "Dòng                              họ Thích".   Các Tỳkheo                              hỏi: "Mang đến nơi nào?".   Người thợ giặt                              đáp: "Vào trong phòng này".   Các Tỳkheo                              liền đến phòng đó, dùng tay gõ cửa, gọi: "Trưởng lão                              hãy mở cửa".   Nhưng vị                              Tỳkheo ấy im lặng không đáp. Có một Tỳkheo trẻ tuổi,                              khỏe mạnh, liền bẻ cửa bước vào. Thầy Tỳkheo trộm áo                              cảm thấy hổ thẹn, cúi đầu không nói. Thế rồi thầy                              Tỳkheo trẻ bèn vào giường lấy các chiếc áo đem ra,                              đếm số áo đó, rồi hỏi người thợ giặt có đúng với số                              áo của anh mất hay không, thì anh đáp là đúng và trả                              cho anh. Bấy giờ các Tỳkheo nói với người thợ giặt:                              "Trong hàng xuất gia có nhiều loại người,ví như bàn                              tay có năm ngón không đều, nhiều họ xuất gia làm sao                              đồng nhất được. Ông là người hiền lành tốt bụng, chớ                              nên loan truyền với người khác. Chúng tôi sẽ bạch                              việc này lên Thế Tôn".   Khi ấy người                              thợ giặt bèn nói: "Samôn dòng họ Thích có thế lực                              của vua chúa, thế lực của Bà la môn, trưởng giả,                              trước đây tôi chỉ sợ mất hết các áo này, bây giờ đã                              lấy lại được, còn nói với ai làm gì".   Bấy giờ, các                              Tỳkheo đem nhân duyên ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn.                              Phật bảo gọi Tỳkheo kia đến, và họ đã gọi đến. Rồi                              Phật hỏi thầy: "Ông có thật như vậy chăng?".                               Thầy đáp:                              "Thật như vậy, bạch Thế Tôn!".  Phật bảo thầy:                              "Ông không nghe ta chế giới không được trộm cắp hay                              sao?".   Thầy đáp:                              "Bạch Thế Tôn! Con biết Phật có chế giới, nhưng con                              tưởng rằng chỉ cấm nơi thành ấp thôn xóm, chứ không                              biết là cấm cả những nơi hoang vắng".   Phật nói: "Kẻ                              ngu kia, lấy vật không cho ở trong làng xóm và lấy                              vật không cho ở nơi hoang vắng, khác nhau chỗ nào?                              Ðây là việc làm phi pháp, phi luật, trái lời Phật                              dạy, không thể dùng việc ấy để làm tăng thêm thiện                              pháp".   Các Tỳkheo                              liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn? Vì sao người thợ                              giặt ấy không tin người khác để bị thầy Tỳkheo kia                              lừa gạt".   Phật bảo các                              Tỳkheo: "Người thợ giặt ấy không những đời này không                              tin (người khác) mà trong đời quá khứ cũng đã không                              tin".   Các Tỳkheo                              bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðã từng có như thế sao?".                              Phật dạy: "Ðúng như thế. Trong đời quá khứ có hai Bà                              la môn đến Nam Thiên trúc học Kinh luận của ngoại                              đạo, học xong trở về nước. Trên đường trở về, họ đi                              qua vùng hoang dã nơi đồng cỏ dê ăn, thấy hai con dê                              đực đang húc nhau giữa đường, phép giao đấu của loài                              dê là tiến tới rồi lùi lại (242b). Khi ấy, người đi                              đầu vì ngu si, cả tin, bèn nói với người bạn đi sau:                              "Hãy xem hai con dê đực kia vốn là loài thú bốn chân                              mà cũng biết lễ nhượng, thấy ta là Bà la môn trì                              giới, đa văn, nên từ từ nhường bước, mở đường".                              Người bạn đi sau nói: "Này Bà la môn, ông đừng coi                              thường, tin bậy mà bảo loài dê có tình hữu nghị. Ðó                              không phải là nó kính trọng mở đường tránh ta, mà vì                              pháp giao đấu của dê là tiến tới rồi lại lùi".                               Người đi trước                              không tin lời ấy, nên bị dê húc phải, làm thương                              tích hai đầu gối, nằm lăn quay trên đất, bất tỉnh,                              áo mũ bị rách nát tả tơi. Lúc ấy có vị Thiên đọc lên                              bài kệ như sau:  "Y phục rách                              tả tơi,   Phật nói với                              các Tỳkheo: "Thuở ấy, người Bà la môn đi đầu nào                              phải ai khác đâu mà chính là người mất áo hôm nay.                              Còn người Bà la môn đi sau thuở ấy chính là người                              đàn ông báo tin kia vậy. Con dê đực thuở ấy nay                              chính là Tỳkheo trộm áo. Người mất áo vì trước kia                              không tin nên bị dê húc, nay cũng không tin nên lại                              mất áo, ngày xưa đã không tin lời nói của người đi                              sau, nay tuy chân thành thông báo lại cũng không                              tin". Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỳkheo sống                              xung quanh thành Xá Vệ đều phải tập họp lại, những                              ai nghe rồi, cũng phải nghe lại nữa:  -- "Nếu                              Tỳkheo ở nơi xóm làng, chỗ vắng vẻ, của người ta                              không cho mà lấy trộm đủ số (quy định) thì phạm tội                              Ba la di không được sống chung (với Tăng chúng)".
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
2.- Y thực lợi:                              Cùng nhận một sự bố thí. 
2.- Nói dối .                             
3.- Dùng gậy đánh                              người . 
Giờ biến thành                              thân người 
Sợ chết, cầu                              thoát thân 
Mà chạy vào trong                              đó. 
Vì đức hạnh Tiên                              nhân, 
Ta phải nhịn đói                              khát, 
Thà chịu mất thân                              mạng, 
Không dám ăn rồng                              này. 
Thường hưởng                              thiên cam lồ. 
Nhịn đói không ăn                              rồng 
Vì lòng kính                              trọng ta" 
Ngoài giả mặc cà                              sa. 
Lòng ôm ấp độc                              hại, 
Không đáng mặc cà                              sa. 
Thiền định trong                              vô tướng 
Vĩnh viễn diệt                              phiền não. 
Nội tâm thường                              vắng lặng 
Mới đáng mặc cà                              sa". 
Và nghe điều tội                              phước 
Thiện tâm ngày                              đêm tăng 
Ác hạnh dần tiêu                              diệt 
Gần gũi các                              nghiệp ác, 
Tâm trước khởi                              trở lại, 
Chỉ có bậc minh                              trí 
Thẳng tiến không                              lùi bước". 
Phải tu pháp                              Samôn. 
Giữ thân mạng                              tịnh chỉ  
Như rắn vào hang                              chuột. 
Muốn hưởng niềm                              vui thiền, 
Phải tu pháp                              Samôn. 
Y thực cần cho                              mình, 
Xấu tốt tùy theo                              chúng. 
Muốn hưởng niềm                              vui thiền 
Phải tu pháp                              Samôn. 
Nhất thiết phải                              tri túc 
Chuyên tu đạo                              Niết bàn". 
Bị thương nằm bất                              động. 
Người ngu chuốc                              họa này, 
Là do tin mù                              quáng". 
