Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Một                                                                                                                     NÓI RÕ PHẦN BA CỦA BA MƯƠI PHÁP NI-TÁT-KÌ BA-DẠ-ÐỀ.                                                             (NGUYÊN                              VĂN GỌI PHẦN BỐN)                                    23. GIỚI: CHO Y RỒI LẤY                              LẠI.                              Khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, trưởng lão                              Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà, vào mùa Ðông thời tiết khá                              lạnh, bèn mặc áo dày, trải chăn nệm ấm, trên đầu                              chít khăn [318c] Phú-la, ở trước đốt một lò lửa. Bấy                              giờ, có ngoại đạo da đen, mắt xanh, lạnh run lẩy bẩy                              đi đến, đứng trước hai thầy. Ngoại đạo thấy thế lòng                              sinh vui vẻ, liền nói với Tỉ-kheo: "Các vị xuất gia                              được sướng như vậy nhỉ! Thế rồi, tâm họ sinh hoan hỉ                              đối với Phật pháp, liền nói: "Chúng tôi cũng mang                              danh là xuất gia, nhưng Phất Lan Ca Diếp dạy chúng                              tôi sống lõa thể, nhổ tóc, leo lên núi, nhảy xuống                              khe, để cho năm sức nóng thiêu thân mà đi khất thực,                              chịu đau khổ oan uổng mà chẳng vui sướng gì".                                                           Các Tỉ-kheo liền bảo:                              "Các ông có thích giáo pháp này thì đến đây xin xuất                              gia, rồi sẽ sống an lạc như chúng tôi thôi".                                                           Ngoại đạo nói: "Tôi                              không có y Tăng-già-lê của Sa-môn".                                                           Tỉ-kheo nói: "Ông cứ                              đến, tôi sẽ cho ông".                                                           Thế rồi, ngoại đạo                              liền đến, các Tỉ-kheo bèn cho họ xuất gia, thọ giới                              cụ túc, rồi bảo: "Nay Ta đã độ ông xuất gia, thọ                              giới cụ túc, ông phải làm những việc cần thiết như                              sau: Sáng sớm Ta ngủ dậy, phải hỏi rằng: "Ngủ có an                              ổn không?", mang ống nhổ và đồ tiểu tiện đi đổ, rồi                              đem rửa sạch để lại chỗ cũ, trao nước rửa mặt, tăm                              xỉa răng, mang bát đi lấy cháo. Khi Ta điểm tâm xong,                              ông phải rửa bát, lau khô rồi để lại chỗ cũ. Nếu có                              chỗ nào mời thọ trai thì phải đến đó nhận lấy thức                              ăn. Khi Ta muốn vào xóm làng, phải đem y thường mặc                              vào xóm làng trao cho Ta, rồi lấy y Ta vừa thay xếp                              lại ngay ngắn cất vào chỗ cũ. Khi Ta từ xóm làng trở                              về, ngươi phải trải ghế nhỏ cho Ta ngồi, trao Ta                              nước và lá cây. Khi Ta ăn, phải cầm quạt quạt. Ta ăn                              xong, phải rửa bát, lau khô, đem cất lại chỗ cũ, rồi                              cởi y Ta mặc vào xóm làng xếp lại đem cất, trao cho                              Ta y thường mặc. Khi ngươi ăn xong, phải đi lấy củi                              rác, giặt y, đem nhuộm, quét trong phòng sạch sẽ,                              rồi lau sàn nhà. Khi Ta muốn vào rừng ngồi thiền,                              ngươi phải mang tọa cụ đi theo, khi Ta trở về, thì                              theo về, rồi trao cho Ta nước rửa tay. Khi trao cho                              Ta hương hoa cúng dường xong, ngươi phải trải giường,                              đưa nước rửa chân cho Ta, rồi lấy dầu xoa bóp, trải                              ra, bỏ mùng, đưa ống nhổ, đồ tiểu tiện, đốt đèn.v.v.,                              cung cấp các thứ như vậy cho Ta xong xuôi, sau đó                              mới tự lo phần mình".                                                           Khi ấy tân Tỉ-kheo (ngoại                              đạo) bèn đáp với Thầy rằng: "Những điều đó không                              phải là phép tắc xuất gia, mà là làm đầy tớ".                                                           Thầy nói: "Nếu ngươi                              không thể làm được thì phải trả y Tăng-già-lê lại                              cho Ta".                                                           Người ấy bèn cởi y                              để dưới đất rồi ra đi.                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy                              giờ,Tôn-giả Nan Ðà là anh của Ưu-ba-nan-đà,                              Ưu-ba-nan-đà bèn nói với người đệ tử tùy tùng của                              anh mình như sau: "Ta cùng với ngươi vào xóm làng,                              Ta sẽ cho ngươi phẩm vật. Nếu Ta có làm điều gì trái                              oai nghi, [319a] ngươi chớ nói với người khác, vì Ta                              là chú của ngươi".                                                           Người đệ tử nói: "Nếu                              tôi thấy cha tôi làm điều phi pháp, tôi cũng sẽ nói                              với người khác, huống gì là chú".                                                           Ưu-ba-nan-đà lại nói:                              "Nếu ngươi như thế, Ta sẽ cho ngươi biết tay, bèn                              dẫn y đến nhà hào quí. Nhà đàn việt này bèn mời họ ở                              lại dùng cơm.                                                            Vì không muốn cho y                              ăn nên Ưu-ba-nan-đà làm ra vẻ suy nghĩ đợi cho mặt                              trời gần trưa để cho y không thể khất thực, mà trở                              về trú xứ cũng quá bữa, bèn nói với y: "Ngươi hãy                              trở về tinh xá".                                                            Người này liền trở                              về, vì sợ trễ bữa, nên vội vàng vừa nhìn mặt trời                              vừa đi, nhưng vừa tới tinh xá, thì thấy các Tỉ-kheo                              đã ăn xong, đang đi kinh hành trước cửa.                                                            Các Tỉ-kheo từ xa                              trông thấy Thầy đi vội vàng, nghi ắt có điều gì bất                              thường, liền hỏi: "Hôm nay, ngươi cùng với Tỉ-kheo                              có nhiều người quen biết đi giáo hóa các nơi, được                              những thức ăn gì ngon mà mặt mày hớn hở như thế?"                                                           Ðáp: "Hôm nay tôi bị                              mất bữa ăn, chứ làm gì được thức ngon!"                                                           Ưu-ba-nan-đà bảo y                              trở về rồi, sau đó ăn uống các thứ, ăn xong, sợ sự                              tình tiết lộ, bèn nhanh chân trở về, thì thấy các                              Tỉ-kheo đang tụ tập đông đảo bàn luận, liền suy nghĩ:                              "Mọi người tụ họp bàn luận, ắt Tỉ-kheo kia đã nói                              với các vị phạm hạnh về hành vi xấu ác của Ta, liền                              nói với Nan Ðà: "Trưởng lão, đệ tử của Ngài đã hướng                              đến các vị phạm hạnh nói về những việc xấu của tôi".                                                           Nan Ðà bèn giận dữ,                              nói với đệ tư û: "Hôm nay, vì sao ngươi lại nói về                              lỗi của em Ta? Ngươi hãy trả y Tăng-già-lê lại cho                              Ta".                                                           Các Tỉ-kheo nghe thế,                              cùng nhau bảo: "Thầy Tỉ-kheo này hôm nay gặp hai                              việc khổ não: Một là mất ăn. Hai là mất y".                                                           Phật nghe được việc                              ấy, biết mà vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Ðó là Tỉ-kheo nào                              mà cao giọng lớn tiếng như thế?"                                                           Các Tỉ-kheo liền                              bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðó là Nan Ðà đoạt lại                              y của đệ tử tùy tùng, cho nên mới lớn tiếng".                                                           Phật bảo gọi Nan Ðà                              đến. Khi Thầy tới rồi, Phật bèn hỏi kỹ Nan Ðà: "Có                              thật ông vì muốn được cung cấp cho mình mà độ người,                              cho y, khiến cho đệ tử giận không chịu làm thân phận                              tôi đòi, rồi ông đoạt lại y của đệ tử tùy tùng phải                              không?"                                                           Thầy đáp: "Có thật                              như vậy".                                                           Khi ấy, Phật nói với                              Nan Ðà: "Vì sao ông độ người xuất gia, không dạy                              pháp luật, mà chỉ sai họ chấp tác, cung cấp cho bản                              thân mình?".                                                            Phật khiển trách đủ                              điều, xong rồi liền nói với các Tỉ-kheo: "Từ nay trở                              đi không được rắp tâm vì muốn cung cấp cho chính                              mình mà độ người xuất gia, ai độ thì phạm tội                              Việt-tì-ni. Trái lại, nên nghĩ thế này: "Mong cho kẻ                              kia nhờ Ta hóa độ, tu các thiện pháp, thành tựu đạo                              quả".                                                            Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười việc lợi ích mà chế giới                              cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           -- "Nếu Tỉ kheo cho                              y cho Tỉ-kheo khác, rồi sau đó nổi giận không vui,                              hoặc tự đoạt, hoặc sai người [319b] đoạt lại, nói                              như sau: "Tỉ-kheo, trả y lại cho Ta, Ta không cho                              ngươi nữa". Khi được y thì phạm tội Ni-Tát-kì                              Ba-dạ-đề ".                                                           Giải thích                                                            (Một số từ đã được                              giải thích)                                                           - Ðoạt:                              Hoặc tự đoạt, hoặc sai người đoạt, nói như sau: "Trả                              y lại cho Ta, Ta không cho ngươi nữa". Khi lấy lại                              được, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           - Ni-Tát-kì                              Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.                                                           Tóm lại, có các                              trường hợp: Hoặc tự mình cho, rồi sai người đoạt lại;                              hoặc sai người cho, rồi tự mình đoạt lại; hoặc tự                              mình cho, rồi tự mình đoạt; hoặc sai người cho, sai                              người đoạt; hoặc cùng cho, đoạt riêng, hoặc cho                              riêng, cùng đoạt; hoặc cùng cho cùng đoạt; hoặc cho                              riêng, đoạt riêng.                                                           - Cùng cho,                              đoạt riêng: Tỉ-kheo một lần cho 3 y, về sau                              đoạt riêng từng cái, nói: "Trả cho Ta Tăng-già-lê,                              trả cho Ta Uất-đa-la-tăng, trả cho Ta An-đà-hội".                              Ðoạt như vậy thì phạm nhiều tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là                              cùng cho, đoạt riêng.                                                           - Cho riêng,                              đoạt chung: Tỉ-kheo cho y Tăng-già-lê, cho                              Uất-đa-la-tăng, cho An-đà-hội không cùng một lần,                              nhưng đòi lại một lần, nói: "Ngươi trả các y lại cho                              Ta". Ðoạt như vậy thì phạm một tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi                              là cho riêng, đoạt chung.                                                           - Cùng cho,                              cùng đoạt: Tỉ-kheo một lần cho các y, sau đó                              nói: "Trả hết các y lại cho Ta". Ðoạt như vậy, phạm                              một tội Ba-dạ-đề.                                                           - Cho riêng,                              đoạt riêng: Tỉ-kheo cho Tăng-già-lê,                              Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội không phải cùng lúc, rồi                              sau đó đòi lại dần dần, nói: "Trả cho Ta Tăng-già-lê,                              trả cho Ta Uất-đa-la-tăng, trả cho Ta An-đà-hội".                              Nói như vậy mà được, thì phạm nhiều tội Ba-dạ-đề.                                                           Nếu Tỉ-kheo khi cho                              y Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi ở gần bên Ta, Ta sẽ cho                              ngươi y, nếu không ở, Ta sẽ lấy lại", thì khi lấy                              lại không có tôïi.                                                           Nếu Tỉ-kheo khi cho                              y Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi ở đây, Ta sẽ cho, nếu                              không ở, Ta lấy lại", thì khi lấy lại không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo cho y                              cho Tỉ-kheo khác, nói: "Ngươi làm vui lòng Ta thì Ta                              cho". Sau đó, không làm vui lòng, bèn lấy lại, thì                              không có tội.                                                           Vì người xem Kinh mà                              cho, sau đó, họ không xem, bèn lấy lại, thì không có                              tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo bán y                              chưa lấy tiền, hoặc lấy chưa đủ, nên lấy lại y thì                              không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo cho y                              cho đệ tử tùy tùng, đệ tử y chỉ mà không thể dạy dỗ                              được, vì muốn chiết phục mà đoạt lại y, sau khi                              chiết phục được,bèn trả lại, thì không có tội.                                                           Nếu đoạt y của                              Tỉ-kheo, phạm tội Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề; đoạt y                              Tỉ-kheo-ni, phạm tội Thâu-lan-giá; đoạt y                              Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, phạm tội Việt-tì-ni;                              đoạt y người thế tục, phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm                              sám hối. Thế nên nói (như trên).                                                                                                                     24. GIỚI: SẮM                              ÁO MƯA TRƯỚC THỜI HẠN.                                                           [319c] Khi Phật an                              trú tại thành Xá Vệ, dân chúng 4 phương cách 12 do                              tuần, bố thí cho chúng Tăng áo mưa, như nhân duyên                              Tỳ Xá Khư lộc mẫu đã nói rõ.                                                           Lại nữa, khi Phật                              trụ tại nước Kiều-tát-la, có một Tỉ-kheo lẩm cẫm,                              khi du hành, mặc áo mưa bên trong, mặc y An-đà-hội                              bên ngoài, cầm cây chổi cán dài quét đất, Phật thấy                              thế, nói với các Tỉ-kheo:                                                            - Các ông có thấy                              Tỉ-kheo lẩm cẩm kia chăng? Vì sao mà mặc y một cách                              ngược ngạo như thế!                                                           Tỉ-kheo lẩm cẩm ấy                              trông thấy Phật, bèn đi đến, cúi đầu đảnh lễ dưới                              chân Phật, rồi đứng qua một bên. Phật biết mà vẫn                              hỏi: "Này Tỉ-kheo, bên trong ông mặc áo gì?"                                                           Thầy đáp: "Áo mưa".                                                           - Bên ngoài mặc áo                              gì?                                                            - An-đà-hội.                                                           - Này Tỉ-kheo, vì                              sao cái đáng lý mặc ở ngoài, ông lại mặc ở trong,                              cái đáng mặc ở trong, lại mặc ở ngoài? Nay vì sao                              lúc nào ông cũng mặc áo mưa?.                                                            Thế rồi, Phật nói                              với các Tỉ-kheo: "Các ông hãy đợi Như Lai du hành                              nước Kiều-tát-la trở về thành Xá Vệ, rồi nhắc lại                              Ta, Ta sẽ chế định cách thức mặc áo mưa cho các                              Tỉ-kheo".                                                           Sau khi Phật du hành                              nước Kiều-tát-la trở về, các Tỉ-kheo liền bạch với                              Phật: "Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn du hành nước                              Kiều-tát-la có nói rằng: - Sau khi Như Lai du hành                              nước Kiều-tát-la trở về Xá Vệ, các ông hãy nhắc lại                              Ta, Ta sẽ chế định việc mặc áo mưa cho các Tỉ-kheo.                              Nay thật đúng lúc, xin Thế Tôn chế định việc mặc áo                              mưa".                                                           Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           -- "Trong vòng một                              tháng cuối mùa Xuân, các Tỉ-kheo nên tìm vải may áo                              mưa, rồi may trong vòng nửa tháng mà dùng. Nếu chưa                              đến tháng cuối mùa xuân mà Tỉ-kheo đi tìm vải may áo                              mưa, rồi may trong vòng nửa tháng sử dụng, thì phạm                              Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề ".                                                           Giải thích                                                            - Một tháng                              cuối xuân: Tức 15 ngày cuối của tháng 3 và                              15 ngày đầu của tháng tư. Ðó gọi là một tháng cuối                              mùa xuân.                                                           - Áo mưa:                              Như Thế Tôn đã cho phép.                                                           - Áo (y):                              Có 10 loại, như trên đã nói.                                                           - Tìm:                              Cầu xin, hoặc khuyên người ta cho. Lúc tìm, không                              nên đến các nhà nghèo xin chỗ này một thước, chỗ kia                              2 thước, mà nên đến xin những nhà khá giả, hoặc một                              người cho, hoặc nhiều người cùng cho. Ðó gọi là tìm.                                                           - Nửa tháng                              cuối: Từ 16 tháng 3 trở đi nên giặt, nhuộm,                              vá y, cho đến ngày mồng một tháng tư thì sử dụng.                              Nếu Tỉ-kheo chưa đến ngày 16 tháng 3 mà đi tìm, may                              thành, sử dụng, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .                                                           Tỉ-kheo nào có năm                              đức tính thành tựu thì Tăng nên làm Yết-ma cử vị ấy                              chia áo mưa. [320a] Năm đức tính đó là:                                                            - Không thiên vị;                              Không giận dữ ; Không sợ hãi; Không mê muội; và biết                              ai đã chia rồi, ai chưa chia.                                                            Ðó gọi là năm đức                              tính. Người làm Yết-ma nên nói như sau:                                                            "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp, nếu                              thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cử                              Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo mưa. Ðây là lời                              tác bạch.                                                           Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nay                              Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo mưa,                              Ðại-đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia                              áo mưa, thì xin im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.                                                           Tăng đã bằng lòng cử                              Tỉ-kheo mỗ giáp làm người chia áo mưa xong, vì Tăng                              đã im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                                                           Khi làm Yết-ma xong,                              nên xướng lên giữa chúng rằng:                                                            - Ðại-đức Tăng lắng                              nghe! Có các loại vải lớn, nhỏ, bằng 4 ngón tay, 8                              ngón tay, không bằng nhau, không thể tính, tôi sẽ                              chia.                                                           Nếu không xướng lên                              như thế thì phạm tội Việt-tì-ni.                                                           Người này làm Yết-ma                              xong, phải đi tìm cho Tăng. Khi đi tìm, không nên                              đến những gia đình nghèo, xin chừng một thước, 2                              thước, mà nên đến những nhà khá giả, hoặc một người                              cho, hoặc nhiều người hợp lại cho, tối thiểu được                              một áo mưa. Ðó gọi là đi tìm.                                                           Nếu từ 16 tháng 3                              trở đi có người mang vải đến cúng thì nên chia. Khi                              chia nên hỏi Thượng- tọa: "Thượng-tọa muốn lấy hôm                              nay hay đợi sau này lấy?"Nếu đó là loại tốt. Nếu                              Thượng- tọa nói: "Lấy hôm nay, thì liền trao cho".                              Nếu nói: "Sau này sẽ lấy", thì đợi về sau sẽ đưa.                              Nếu có Tỉ-kheo khách tới, nên hỏi: "Thầy định an cư                              mùa hạ tại đâu?". Nếu nói: "An cư tại đây, thì nên                              đưa cho". Nếu nói: "Tôi muốn an cư chỗ khác", nhưng                              muốn nhận áo mưa ở đây, thì cũng nên đưa, nhưng dặn:                              "Thầy không nên nhận áo mưa ở chỗ khác nữa". Nếu nói:                              "Tôi không lấy ở đây, đợi khi an cư chỗ nào, tôi sẽ                              lấy ở đó, thì cứ tùy ý".                                                           Nếu được nhiều áo                              mưa thì mỗi Tỉ-kheo nên cho một trong 2 Sa-di một                              cái. Nếu ít, cho không đủ, thì khi an cư xong, chia                              y nên chia đều áo mưa, áo này không được dùng mặc                              thường như 3 y, cũng không được tác tịnh thí, không                              được mặc áo mưa xuống tắm dưới sông, dưới ao, không                              được mặc khi mưa lâm râm. Khi tắm không được khỏa                              thân mà nên mặc đồ lót. Nếu dư y cũ thì không được                              thường mặc áo mưa làm các công việc, mà phải đợi khi                              mưa lớn, mặc tắm. Khi mặc tắm bỗng dưng trời ngừng                              mưa, mà còn bẩn, thì được mặc tìm chỗ nước khác tắm,                              không có tội.                                                           Nếu Tỉ-kheo khi ăn,                              hoặc khi có bệnh muốn dùng dầu thoa mình mà gặp chỗ                              nhiều người qua lại, thì có thể 2 người chụm đầu lại                              che khuất để thoa.                                                           Cái y tắm mưa này                              được dùng tắm vào khoảng nửa tháng 4 cho đến 15                              tháng 8 [320b] thì nên xả. Khi làm phép xả, một                              Tỉ-kheo xướng giữa chúng Tăng như sau:                                                            "Ðại đức Tăng lắng                              nghe! Hôm nay Tăng xả áo tắm mưa".                                                            Nói như thế 3 lần.                              Nếu để đến ngày 16 mới xả thì phạm tội Việt-tì-ni.                              Khi xả rồi, được dùng nó để may 3 y, được tác tịnh                              với Tỉ-kheo quen biết, cũng được mặc vào trong các                              chỗ có nước khác tắm, đều không có tội. Thế nên nói                              (như trên).                                                                                                                                                  25. GIỚI: XIN CHỈ SỢI VỀ DỆT VẢI.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ nói rộng như trên. Bấy giờ Tôn-giả Nan                              Ðà, Ưu-ba-nan-đà cầm bắp chỉ sợi đi đến nhà Cư sĩ,                              nói với Ưu Bà Di: "Bố thí vải sợi cho tôi".                                                           Những bà vợ của các                              Cư sĩ suy nghĩ: "Thầy Tỉ-kheo này muốn mua vải sợi",                              nên mỗi người đều mang vải sợi đến.                                                           Tỉ-kheo thấy vậy,                              bèn lấy so sánh với cuộn vải sợi của mình rồi nói: "Chính                              tôi muốn tìm loại vải sợi này đây, bây giờ đem so                              sánh thì giống y hệt". Nếu thấy cái nào đẹp, thì lại                              nói: "Tôi muốn tìm loại này, nhưng so sánh thì ở đây                              đẹp hơn". Nếu thấy loại thô, thì liền nói: "Chỉ sợi                              này tuy thô, nhưng có thể làm thành đẹp". Thế nhưng,                              những người gánh gồng vải sợi đến đều chẳng được                              tích sự gì.                                                           Lúc bấy giờ, cách                              tinh xá Kỳ Hoàn không xa có một xóm nghèo, nơi đây                              có lập ra một cửa hàng dệt, các Tôn-giả kia định độ                              thợ dệt này xuất gia, để sai dệt y (cho mình). Tôn                              giả A Nan khi đến giờ khất thực, bèn khoác y, cầm                              bát vào xóm làng tuần tự khất thực, đến trước cửa                              nhà ấy, trông thấy Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà cùng cầm                              cuôïn chỉ sợi căng ra. Thấy thế, rồi cùng nhau chào                              hỏi. Ðoạn A Nan hỏi 2 vị kia: "Các trưởng lão đang                              làm gì đấy?"                                                           Họ đáp: "Chúng tôi                              định dệt vải"                                                           Thế rồi, họ suy nghĩ:                              "Hôm nay Ta được thấy thị giả A Nan (tức A Nan là                              thị giả của Phật), thế nào Thầy ấy cũng sẽ nói với                              Thế Tôn tạo ra phương tiện (có giải pháp linh động)".                              Nghĩ thế rồi, ông bèn cầm cuộn chỉ cúng dường tôn                              giả A Nan, nói: "Nên cầm cái này về để vá y". Nhưng                              A Nan không lấy.                                                           Sau khi khất thực                              trở về, ăn xong, A Nan bèn đem sự kiện trên bạch đầy                              đủ lên Thế Tôn. Phật bảo gọi Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà                              đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi Ưu-ba-nan-đà về                              vấn đề trên, cho đến: "A Nan không nhận chỉ sợi của                              ông có thật thế chăng?"                                                           Thầy đáp: "Có thật                              như vậy".                                                           Phật khiển trách: "Ðó                              là việc xấu. Ông không từng nghe Ta dùng vô số                              phương tiện khen ngợi thiểu dục, chê trách đa dục                              hay sao? Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta                              dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp                              được".                                                            Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì 10 điều lợi ích mà chế giới                              cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           -- "Nếu Tỉ-kheo tự                              đi xin chỉ sợi rồi sai thợ dệt dệt vải, thì phạm Ni-Tát-kì                              Ba-dạ-đề ".                                                           Giải thích                                                            - Tự xin:                              Khuyến hóa xin, hoặc được một cuộn, 2 cuộn chỉ sợi.                                                           - Vải sợi:                              Có 7 loại [320c] vải sợi .                                                           - Thợ dệt:                              Như thợ dệt Kim-tì-đề-trú-cu-lợi.                                                           Nếu dệt thành vải                              thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .                                                           Nếu Tỉ-kheo tự đi                              xin vải sợi thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối.                              Nếu nhận được (vải sợi) thì phạm tội Việt-tì-ni. Khi                              dệt thành vải thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề .                                                           Theo phong tục của                              nước Ca Thi, cứ sau khi an cư xong, đàn việt cúng                              chỉ sợi và tiền dệt cho các Tỉ-kheo. Tỉ-kheo nào                              muốn dệt thành vải thì đem đến bảo thợ dệt như sau:                              "Tôi đưa ông cuộn chỉ này, ông dệt thành vải cho tôi".                              Nếu như thợ dệt nói: "Tôi không hiểu ý Thầy", thì                              nên hỏi: "Nhà ông làm nghề gì?". Ðáp: "dệt vải". Lại                              nói: "Ông hãy dệt cái này thành vải cho tôi". Nếu                              thợ dệt cũng không hiểu lời nói ấy, thì nên đem cuộn                              chỉ ấy giao cho tịnh nhân nhờ họ thuê dệt giúp, nhất                              thiết không được dùng những lời nói thuê mướn. Nếu                              có Tỉ-kheo biết dệt đai buộc lưng, Ta muốn nhờ Thầy                              ấy dệt thì nên cầm chỉ đến đưa và nói: "Trưởng lão,                              hãy làm giùm thành đai lưng cho tôi". Thế nên nói (như                              trên).                                                                                                                                                  26. GIỚI: QUỴT TIỀN CỦA THỢ DỆT.                                                           Khi Phật an trú tại                              tinh xá Kỳ Hoàn trong thành Xá Vệ, bấy giờ Tỳ Xá Khư                              lộc mẫu cứ mỗi ngày mời chúng Tăng về nhà thọ trai.                              Bấy giờ, có Tỉ-kheo tới phiên mình đến nhà ấy thọ                              trai, trông thấy Tỳ Xá Khư lộc mẫu cầm cuộn chỉ đưa                              thợ dệt, nói: "Ông dệt thành vải giúp tôi. Tôi muốn                              cúng dường Tôn-giả Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà. Những vị                              này khó tính, ông gắng dệt cho thật đẹp".                                                           Tỉ-kheo ấy thọ trai                              xong, trở về tinh xá, nói với Nan Ðà: "Trưởng lão,                              tôi muốn báo cho Thầy một tin vui".                                                           - Có việc gì vui thế?                                                           - Tôi nghe Tỳ Xá Khư                              lộc mẫu định cúng dường y cho Thầy.                                                           - Y đó không phải                              cúng dường cho tôi. Vì sao? Vì Ưu Bà Di này sắp cúng                              dường cho các bậc hiền thánh.                                                           - Không phải vậy,                              chính mắt tôi trông thấy Tỳ Xá Khư lộc mẫu cầm cuộn                              chỉ sợi đưa thợ dệt, nói: "Tôi đưa ông cuộn chỉ sợi                              này, ông hãy dệt thành vải cho đẹp giúp tôi. Tôi                              muốn cúng dường cho Nan Ðà, vì Thầy ấy khó tính".                                                           - Thầy có biết nhà                              thợ dệt ở đâu không?                                                           - Biết.                                                           - Nhà ấy ở vùng nào?                              Tại hẻm nào? Cửa hướng về phương nào? Chỉ cho tôi rõ                              các tiêu tướng (dấu hiệu).                                                           Khi đã hỏi kỹ, biết                              rõ chỗ rồi, sáng hôm sau Nan Ðà khoác y, đi đến nhà                              ấy, trông thấy thợ dệt đang căng đường kinh (đường                              chỉ dọc) để dệt liền hỏi:                                                           - Lão trượng, căng                              đường kinh dệt vải cho ai vậy?                                                           - Tôi sắp dệt vải                              cho Lộc mẫu Tỳ Xá Khư.                                                           - Ông có biết Tỳ Xá                              Khư thuê dệt cho ai không?                                                           - Tôi biết. Bà thuê                              dệt cho Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà.                                                           - Ông biết Nan Ðà                              không?                                                           - Tôi không biết.                                                           - Nan Ðà,                              Ưu-ba-nan-đà chính là chúng tôi đấy. Ông hãy dệt cho                              đẹp, dài, rộng, mịn, dày.                                                           - [321a] Số lượng                              sợi có giới hạn nhất định, tôi có thể dệt không có                              đường vĩ (đường chỉ ngang) được sao?                                                           - Ông cứ theo lời                              tôi dệt cho đẹp, nhà ấy giàu có, sẽ tự đưa thêm vải                              sợi cho ông.                                                           - Nhà ấy đưa thêm                              cho tôi vải sợi, thế còn tiền dệt thì ai đưa cho tôi?                                                           - Ông cứ dệt cho đẹp,                              còn tiền dệt tôi sẽ đưa cho ông.                                                           - Nếu Tôn-giả trả                              tiền dệt cho tôi, bà ấy đưa thêm vải sợi, thì tôi sẽ                              dệt như lời dặn.                                                           Thế rồi, thợ dệt cứ                              theo lời dặn, dệt thật đẹp, khi sợi hết thì đến đòi,                              làm như vậy đến 3 lần. Tỳ Xá Khư lộc mẫu suy nghĩ: "Người                              này chỉ đến đòi vải sợi, không đòi tiền dệt, vì sao                              Ta không đưa cho đủ vải sợi? "                                                           Khi dệt xong tấm vải                              rộng, dài, dày, đẹp, ông bèn đem đến đưa Lộc mẫu.                              Lộc mẫu nhận rồi, thầm nhủ: Tấm vải này rất đẹp,                              không nên cúng cho Thầy ấy (Nan Ðà), vì đây là vật                              cúng dường có giá trị. Thế nhưng, trước đã hứa cúng                              cho Thầy rồi. Nghĩ vậy, bà bèn đưa cho Nan Ðà.                                                           Khi Tấm vải chưa                              thành, ngày nào Nan Ðà cũng đến nhà thợ dệt, nhưng                              lúc được vải rồi thì Thầy rời xa nhà ấy, đi vào con                              hẻm khác, ví như con quạ già lánh xa chỗ có tên bắn.                              Thợ dệt do nhiều công việc, không thể đến đòi tiền                              dệt. Về sau, nhân có đại hội thợ dệt, ông bèn đến                              thành Xá Vệ. Lúc ấy thợ dệt suy nghĩ: "Mọi người                              chưa tập họp, giờ đây Ta hãy đến tinh xá Kỳ Hoàn đòi                              tiền dệt". Nghĩ thế, ông bèn đến đó, hỏi các Tỉ-kheo:                              "Nan Ðà, Ưu-ba-na-đà ở tại chỗ nào?"                                                           Các Tỉ-kheo nói: "Trong                              phòng này đây".                                                           Ông liền vào phòng,                              thấy Nan Ðà rồi, bèn đảnh lễ vấn an, giả vờ không                              biết, như chưa từng gặp nhau, bèn hỏi: "Tôn-giả nhận                              được vải chưa? "                                                           Nan Ðà hỏi ngược lại:                              "Vải nào?"                                                           - Tôi dệt cho Lộc                              mẫu đấy.                                                           - Ðược rồi.                                                           - Tấm vải có vừa ý                              Tôn-giả không?                                                           - Cũng tạm được.                                                           - Thưa Thầy, Thầy                              hãy trả tiền dệt cho tôi.                                                           - Trả tiền dệt gì?                                                           - (cho đến) Ưu Bà Di                              đưa đủ vải sợi, và Thầy hứa trả tiền dệt cho tôi.                                                           Nan Ðà bèn nổi giận                              nói: "Ngươi có biết Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà không? Ta                              muốn móc lấy tròng mắt của ngươi. Bỗng dưng hư không                              mà bốc khói. Ngươi hy vọng nhận được tiền dệt của Ta                              chẳng khác gì muốn lột lấy 2 miếng vải che của ngoại                              đạo lõa thể, hoặc mong lóc lấy 500 cân thịt từ chân                              của con quạ già đã chết, hoặc đem bỏ một nắm cám                              dưới đáy sông Hằng rồi mong nhặt lại được tất cả".                              Ðoạn, bảo đệ tử: "Ngươi lấy Tăng-già-lê đưa Ta, Ta                              sẽ mặc đi tới nhà vua gọi lính đến bắt trói tên này                              nạp cho quan".                                                           [321b] Thợ dệt suy                              nghĩ: "Kẻ Sa môn này có thế lực lớn, lại hay ra vào                              cung vua, y có thể gây ra sự bất lợi lớn cho Ta. Ta                              lấy số tiền dệt kia để làm gì! Miễn giữ được mạng                              sống là tốt". Nghĩ thế rồi, ông ta bỏ đi, ra khỏi                              cửa bèn chạy một mạch đến giữa hội chúng các thợ dệt.                              Mọi người liền trách y: "Bọn chúng tôi ai cũng bỏ cả                              việc nhà, đến đây để cùng lo liệu việc quan. Nay                              ngươi vì sao lại bỏ mọi người, đi đâu?"                                                           Anh ta liền đáp: "Các                              vị hãy nghe tôi đã: Lộc mẫu đưa sợi cho tôi dệt, khi                              vải dệt chưa xong, ngày nào Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà                              cũng ghé đến. Nhưng khi nhận được vải rồi thì cũng                              giống như con quạ già lánh xa chỗ bị tên bắn...                              chung cục, tôi suy nghĩ: "Miễn giữ được mạng sống",                              (nói rộng việc trên) cho nên tôi mới đến trễ như vậy".                                                           Mọi người liền nổi                              giận, nói: "Tên Tỉ-kheo này khinh thường chúng ta                              quá lắm, đã không trả tiền may mà trái lại còn muốn                              dựa thế lực của Vua định bắt trói người. Ngày nay,                              chúng ta hãy lập ra giao ước. Sau này không ai dệt                              vải cho Sa môn nữa". Có người nói: "Chúng ta nên                              giao ước với nhau ở chỗ kín, đừng cho ai biết. Tôi                              biết kích thước y của Sa môn, dài 5 khuỷu tay, rộng                              3 khuỷu tay, hoặc dài 5 khuỷu tay, rộng 2 khuỷu tay.                              Nếu gặp kích thước y chừng ấy thì chúng ta không nên                              dệt. Vị Sa môn này có thế lực, y có thể nhờ nhà vua                              dùng quyền lực sai khiến người ta, thậm chí có thể                              gây nên sự bất lợi cho nguời, vậy chớ cho ai biết".                                                           Ðến ngày Tự-tứ, đàn                              việt gánh bắp chỉ đến nhà thợ dệt thuê thợ dệt dệt                              vải, thợ dệt hỏi: "Ông định dệt áo kích thước cỡ nào?"                                                           Chủ nhân đáp: "Chiều                              dài 5 khuỷu tay, rộng 3 khuỷu tay, hoặc dài 5 khuỷu                              tay, rộng 2 khuỷu tay".                                                           Thợ dệt suy nghĩ: "Ðó                              là kích thước y của Sa môn", liền đáp: "Tôi đã dệt                              cho người ta, không thể dệt thêm được". Thế rồi,                              người ấy đi hỏi khắp nơi, đều không ai chịu dệt".                                                           Bấy giờ, các nhà hào                              phú bèn đem vải đã dệt rồi cúng dường cho chúng Tăng.                              Còn các nhà nghèo vì không có vải dệt sẵn nên không                              lấy gì cúng dường cho Tăng. Khi ấy, chư Tăng nhận                              vải cúng dường ít, Phật biết mà vẫn hỏi A Nan: "Vì                              sao chúng Tăng nhận ít vải cúng dường như vậy?"                                                           A Nan liền đem sự                              việc trên, cho đến thợ dệt sinh tâm không hoan hỉ,                              cùng giao ước với nhau, bạch đầy đủ lên Thế Tôn.                              Phật liền bảo gọi Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ                              đến rồi, Phật hỏi: "Các ông có việc đó thật chăng?"                                                           Họ đáp: "Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn".                                                           Phật khiển trách: "Ðó                              là việc xấu. Các ông không từng nghe Ta khen ngợi                              thiểu dục, chê trách đa dục hay sao?".                                                            Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập                              họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các                              Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           -- "[321c] Nếu cư                              sĩ hay vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt vải cho Tỉ-kheo,                              Tỉ-kheo này không được yêu cầu trước mà tự động đến                              thợ dệt khuyên: "Ông có biết không, vải ấy là dệt                              cho tôi đấy. Ông phải dệt cho đẹp, dài và rộng, rồi                              tôi sẽ trả tiền cho ông", thì dù số tiền chỉ đáng                              giá một bữa ăn, Tỉ-kheo này đã giao ước trả tiền như                              vậy, khi nhận được vải, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            - Cư sĩ:                              Nguời chủ nhà.                                                           - Nguời vợ:                              Người vợ của chủ nhà.                                                           - Tỉ-kheo:                              Hoặc Tăng, hoặc nhiều người, hoặc một người.                                                           - Thợ dệt:                              Như trên đã nói.                                                           - Y:                              có 10 loại, như trên đã nói.                                                           - Không được                              yêu cầu trước: Vốn không yêu cầu mà tưởng có                              yêu cầu, hoặc yêu cầu người khác mà tưởng yêu cầu                              mình, hoặc yêu cầu về việc khác mà tưởng yêu cầu về                              việc dệt vải.                                                           - Tự động đến:                              Tức đi tới ruộng hoặc tới nhà họ.                                                           - Khuyên:                              Bảo họ dệt dày, mịn, hoặc dài, rộng.                                                           - Tiền:                              Các loại tiền tệ.                                                           - Giá tiền:                              Những vật khác (được trị giá thành tiền)                                                           - Thức ăn:                              Như gạo lứt, gạo nếp, cá, thịt.                                                           - Trị giá:                              Như tiền, vật .v.v., nếu được y thì phạm Ni-Tát-kì                              Ba-dạ-đề.                                                            Nếu Tỉ-kheo nói với                              thợ dệt: "Ông dệt cho tôi thật đẹp, thật chắc, thật                              dày ..". Khi nói như vậy thì phạm tội Việt-tì-ni.                              Khi thợ dệt bắt tay vào dệt chừng vài nhịp thì phạm                              Ba-dạ-đề. Khi họ dệt xong, nhận được vải, thì phạm                              Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           Nếu Tỉ-kheo thuyết                              pháp cho thợ dệt nghe, rồi thợ dệt dừng tay đứng                              lắng nghe, Tỉ-kheo nói: "Chỉ nên nghe bằng tai,                              không nên nghe bằng tay, tay vẫn cứ làm". Khi nói                              như vậy thì phạm tội Việt-tì-ni.                                                           Nếu Tỉ-kheo nghe ai                              đó định dệt vải cho mình, rồi đến đó khuyên thợ dệt                              mà không hứa trả giá, thì khi được vải phạm tội                              Việt-tì-ni. Nếu nghe rồi đến khuyên và hứa trả giá,                              thì khi nhận được vải, phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề. Nếu                              không nghe mà đến khuyên rồi tự động đưa (tiền), thì                              khi được vải, phạm tội Việt-tì-ni. Nếu không nghe,                              không đến khuyên, cũng không đưa tiền dệt, thì khi                              được vải không có tội.                                                           Nếu có quả phụ cúng                              dường vải cho chúng Tăng, rồi Tỉ-kheo theo thứ tự                              nhận được vải ấy giữa chúng Tăng, khi ấy người đàn                              bà đó nói với Tỉ- kheo: "Nhà tôi không có người.                              Tôn-giả có thể đến chỗ thợ may nhờ họ may giúp vải                              này. Nếu Tôn-giả tự đến thợ may lo liệu thì có thể                              vừa nhanh mà vừa đẹp".                                                           Khi đó, Tỉ-kheo được                              quyền đi tới chỗ thợ may, nói như sau: "Lão trượng,                              ông biết may nhanh, biết may dày...". Nói như thế,                              thì không có tội. Thế nên nói (như trên).                                                                                                                                                  27. GIỚI: CẤT Y CÚNG GẤP QUÁ HẠN.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ, nhóm 6                              Tỉ-kheo an cư tại một làng nọ. Lúc mới bắt đầu an cư,                              vào một buổi mai, họ khoác y, cầm giấy bút vào một                              xóm làng, nói với các Ưu-bà-tắc: "Các ông hãy họp                              nhau làm việc nghĩa, cúng vải [322a] an cư cho chúng                              tôi".                                                           Các Ưu-bà-tắc nói: "Lúc                              này không phải là lúc xin vải an cư, đợi đến mùa thu                              lúa chín, khi ấy phần lớn người ta đều hoan hỉ, họ                              sẽ cúng dường vải".                                                           Nhóm 6 Tỉ-kheo nói:                              "Các ông không biết rằng ở đời có nhiều tai nạn, như                              nạn vua, nạn nước, lửa, trộm cướp, hoặc cha mẹ các                              ông ngăn cản không bố thí được, thế là các ông không                              thành tựu công đức, còn chúng tôi thì thất lợi hay                              sao?"                                                           Ưu-bà-Tắc nói: "Tôn-giả                              chỉ chỉ cho tôi các tai nạn mà tự mình không thấy                              các tai nạn, Tôn-giả tính nhận được tiền an cư rồi                              thì bãi đạo (hoàn tục) hoặc muốn đi nơi khác sao?                              Sao lại đa dục tham lam, như thế thì nào có đạo hạnh                              gì!".                                                           Các Tỉ-kheo nghe thế,                              liền đem sự việc ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật                              liền bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi,                              Phật liền hỏi: "Có thật lúc bắt đầu an cư, các ông                              đến nhà Ưu-bà-tắc xin vải an cư, khiến cho các                              Ưu-bà-tắc trách móc chăng?"                                                           Họ đáp: "Có thật như                              vậy".                                                           Phật liền khiển                              trách: "Ðó là việc xấu. An-cư chưa xong mà đã xin                              vải trước. Từ nay trở đi, các Tỉ-kheo không được xin                              vải trước khi an cư xong".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ vị đại thần của vua Ba                              Tư Nặc là Di Ni Sát Lợi làm phản, Vua sai vị đại                              thần tên Tiên-Nhân Ðạt Ða tới đó đánh dẹp. Vị đại                              thần này lúc sắp lên đường, bèn đi đến chỗ tôn giả A                              Nan bạch rằng: "Thưa Tôn-giả, vị đại thần của Vua                              Ba-tư-nặc làm phản, nay nhà vua sai tôi đến đó đánh                              dẹp, tôi sắp đối đầu với cường địch, thân mạng khó                              bảo toàn. Hằng năm cứ khi an cư xong, tôi thường                              cúng dường trai Tăng và dâng y. Nay tôi vì lệnh Vua                              sai khiến không thể chờ đợi được, nên tôi định dâng                              y trước, đến khi an ổn trở về, sẽ cúng dường trai                              phạn sau".                                                           Tôn-giả A Nan bèn                              đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật biết mà                              vẫn hỏi A Nan: "Ông an cư còn mấy ngày nữa?"                                                           Thầy đáp: "Còn 10                              ngày".                                                           - Phật dạy: "Từ nay                              Ta cho phép trước Tự tứ 10 ngày, các Tỉ-kheo được                              nhận y dâng cấp thời".                                                            Thế rồi Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi, cũng phải nghe lại:                                                           --"Nếu còn 10 ngày                              nữa mới mãn 3 tháng hạ mà gặp dịp dâng y cấp thời,                              Tỉ-kheo nào cần, được phép tự tay nhận lấy, rồi được                              cất giữ đến lúc thời y (thời gian được phép tìm y),                              nếu cất quá thời hạn, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            - Mười ngày:                             Từ mồng 6 tháng 7 đến 15 tháng 7, đó là 10                              ngày.                                                           - Ðược y dâng                              cấp thời: Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc lớn, hoặc                              nhỏ, hoặc tại gia, xuất gia, hoặc quân lính lúc sắp                              ra trận dâng, [322b] hoặc lúc trở về dâng, hoặc lúc                              chết dâng, hoặc khi thiếu nữ về nhà chồng dâng, hoặc                              người đi buôn lúc lên đường dâng, khi ấy thí chủ nói                              với Tỉ-kheo: "Nếu hôm nay không lấy thì ngày mai sẽ                              không có". Ðó gọi là y dâng cấp thời.                                                           - Y:                              Gồm có 7 loại như trên đã nói.                                                           - Muốn lấy:                              Nếu cần vật ấy thì lấy cất đến thời của y.                                                           - Thời gian                              của y: Nếu không thọ y Ca-hi-na thì được cất                              đến 15 tháng 8, nếu có thọ y Ca-hi-na thì được cất                              đến 15 tháng chạp. Nếu cất quá thời gian ấy thì phạm                              Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề.                                                           Tỉ-kheo nào thành                              tựu 5 đức tính sau đây thì Tăng nên cử làm người                              chia y: Không thiên vị, không giận dữ, không sợ hãi,                              không mê muội và biết ai nhận rồi, ai chưa nhận. Ðó                              gọi là 5 đức tính.                                                           Người làm Yết-ma nên                              nói như sau:                                                            "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nếu                              thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cử                              Tỉ-kheo mỗ giáp làm người khuyến hóa chia y".                                                            Rồi bạch như sau:                                                            "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nay                              Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người khuyến hóa chia y.                              Các Ðại-đức nào bằng lòng Tỉ-kheo mỗ giáp làm người                              khuyến hóa chia y cho chúng Tăng thì im lặng, ai                              không bằng lòng hãy nói.                                                           Tăng đã bằng lòng cử                              Tỉ-kheo mỗ giáp làm người khuyến hóa chia y xong, vì                              Tăng đã im lặng. Việc này cứ như thế mà thi hành".                                                           Người được Tăng cử                              nên bạch Tăng như sau:                                                            "Các Ðại-đức, vải có                              loại 4 ngón tay, có loại 8 ngón không bằng nhau, nếu                              cùng thông cảm tôi sẽ chia".Nếu không bạch mà chia                              thì phạm Tội Việt-tì-ni, phải bạch như trên rồi mới                              chia. Vị Tỉ-kheo này từ 16 tháng 3 nên bảo các đàn                              việt cầm giấy bút đi ghi chép các phòng xá, giảng                              đường, phòng sưởi ấm, nhà thiền, cửa ngõ, nhà bếp,                              nhà chứa nước, nhà tiêu, nhà chứa củi, phòng tắm,                              chỗ ngồi dưới gốc cây, chỗ kinh hành, phải ghi tên                              tất cả, rồi xướng giữa Tăng: "Xin Ðại-đức Tăng lắng                              nghe! Tại trú xứ kia có chừng ấy mền gối, có chừng                              ấy y an cư, chừng ấy thực phẩm, chừng ấy ngày ăn                              chay, chừng ấy vật được chú nguyện. Tại trú xứ nọ có                              chừng ấy chỗ A Luyện Nhã". Nếu các tinh xá ở bên                              trái, bên phải xa nhau thì nên chia phòng xá vào                              ngày 12, 13. Nếu tại trú xứ ấy không dung nạp hết                              thì phải đi đến nơi khác. Nếu trong phạm vi thôn xóm                              gần đó có tinh xá thì nên chia vào ngày 14,15. Khi                              chia, phải ghi rõ phòng ốc, mền gối này đưa cho                              Thượng-tọa, và phải bạch Tăng: "Trụ xứ kia có chừng                              ấy phòng xá, mền gối, xin thượng-tọa tùy ý nhận".                              Khi nhận xong, phải tuần tự giao cho đệ nhị, [322c]                              đệ tam Thượng-tọa, cho đến Tỉ-kheo không có tuổi hạ.                              Thượng-tọa nên nói rằng: "Phòng xá thì chia theo thứ                              lớp, còn vật cúng dường thì nên chia bình đẳng". Bấy                              giờ, nên tùy Thượng-tọa xử trí. Khi Thượng-tọa nhận                              rồi nên tuần tự trao cho đệ nhị, đệ Tam Thượng-tọa,                              cũng như thế, cho đến Tỉ-kheo không có tuổi hạ. Nếu                              phòng nhiều, nên chia 1 người 2 phòng. Khi giao cho                              2 phòng mà không chịu nhận thì nên nói: "Ðây là vì                              để trông coi mà chia, chứ không phải chia để ở".                              Không được chia cho Sa-di 2 phòng. Nếu phòng xá ít,                              thì nên chia 2 người một phòng. Nếu chia như vậy mà                              vẫn không đủ, thì 3 người một phòng, hoặc 4 người, 5                              người, cho đến 10 người cùng ở chung một phòng.                                                           Nếu có nhà lớn, hoặc                              phòng sưởi, hoặc phòng ngồi thiền, hoặc giảng đường                              thì tất cả cùng ở trong đó. Nếu không đầy đủ, thì                              đưa cho Thượng-tọa giường nằm, cho người trẻ giường                              ngồi. Nếu cũng không đủ, thì đưa Thượng-tọa giường                              ngồi, người trẻ giường đặt dưới đất. Nếu cũng không                              đủ, thì đưa Thượng-tọa nệm cỏ, người trẻ ngồi không                              nệm. Nếu cũng không đủ, thì các Thượng-tọa nên ngồi,                              những người trẻ nên đứng. Nếu cũng không đủ, thì                              Thượng-tọa nên đứng, người trẻ nên ra khỏi phòng,                              tới dưới gốc cây hoặc những nơi khác.                                                           Thầy Tỉ-kheo được                              Tăng sai, từ ngày 16 tháng 6 trở đi, nên nói với các                              đàn việt: "Lão trượng, phải lo chuẩn bị y". Khi ấy,                              nếu đàn việt đưa y, thì nên bảo: "Hãy để ở nhà ông,                              đợi đúng lúc rồi đưa". Nếu quân lính sắp đi chinh                              chiến cúng dường, hoặc chinh chiến trở về cúng dường,                              hoặc người trước khi chết cúng dường, hoặc khách                              buôn lúc ra đi cúng dường, hoặc lúc thiếu nữ lấy                              chồng cúng dường, nếu như lúc ấy không lấy thì ngày                              mai không có thì khi ấy nên nhận lấy.                                                           Từ mồng 5 tháng 7                              trở đi, nếu có ai đưa y đến thì lấy cất một chỗ, rồi                              dùng lá cây hoặc vỏ cây ghi chép vào: Chừng ấy thời                              y, chừng ấy phi thời y, chừng ấy y dâng cấp thời.                              Loại y đúng thời, thì để đúng thời chia; loại y phi                              thời thì chia lúc phi thời; loại y dâng cấp thời thì                              chia đúng thời.                                                           Nếu người chia y                              hoặc bãi đạo, hoặc chết không thể chia y được, hoặc                              thời hạn đã hết thì nên đổi y cho nhau: Y Tỉ-kheo-ni                              nên đổi cho Tỉ-kheo, y Tỉ-kheo nên đổi cho                              Tỉ-kheo-ni. Nếu làm như vậy mà không được thì y Sa-di                              nên đổi cho Tỉ-kheo, y Tỉ-kheo nên đổi cho Sa-di.                              Nếu cũng không được thì nên bạch giữa chúng Tăng như                              vầy: "Bạch chư Ðại-đức, thời gian của y đã qua,                              chúng Tăng hòa hợp, dùng các y đó làm ngọa cụ cho                              Tăng 4 phương". Nếu bằng lòng thì nên làm ngọa cụ                              cho Tăng 4 phương, Nếu có người nói: "Tôi an cư mùa                              hạ tại đây, được phần y này, vì sao lại dùng làm                              ngọa cụ cho Tăng 4 phương?", thì nên nói với người                              ấy rằng: "Ðợi sang năm vào thời gian của y, sẽ đưa                              cho thầy". Thế nên nói (như trên) .                                                                                                                                                  28. GIỚI: RỜI Y QUÁ THỜI HẠN.                                                           {323a} Khi Phật an                              trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ vào mùa hạ an cư, các                              Tỉ-kheo sống tại A Lan Nhã, đến giờ khất thực, bèn                              khoác y đi vào thôn xóm khất thực. Sau đó, các mục                              đồng chăn bò, chăn dê, hoặc những người đi lấy củi                              bèn cầm chìa khóa tới mở cửa phòng các Tỉ-kheo lấy                              trộm y vật. Khi ấy các Tỉ-kheo vì sợ lấy trộm, nên                              cầm hết y vật vào xóm làng. Phật biết mà vẫn hỏi:                              "Ðó là những Tỉ-kheo nào mà chuyển vận đồ đạc đến                              đây vậy?".                                                           Các Tỉ-kheo liền                              bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Ðó là các Tỉ-kheo an                              cư tại A Lan Nhã, sau khi đi khất thực, có người cầm                              chìa khóa đến mở cửa phòng lấy trộm hết các y vật,                              cho nên mới mang lổn ngổn tới đây".                                                           Phật nói: "Từ nay về                              sau, vào những lúc đáng lo ngại, Ta cho phép được                              đemi một trong 3 y gởi trong xóm làng".                                                           Lại nữa, khi Phật an                              trú tại tinh xá Kỳ Hoàn nơi thành Xá Vệ, lúc ấy tại                              nước Sa Kỳ, ngay trong mùa hạ an cư, có sự tranh cãi                              xảy ra trong Tăng chúng, Phật bèn sai Ưu Ba Ly đến                              nước Sa Kỳ như pháp dập tắt sự tranh chấp đang xảy                              ra giữa chúng Tăng. Nhưng trưởng lão Ưu Ba Ly không                              đi. Phật hỏi Ưu Ba Ly: "Vì sao ông không đi?"                                                           - Bạch Thế Tôn! Y                              Tăng-già-lê của con nặng nề, nếu gặp mưa nữa thì                              không thể mang nổi, mà nay đã nửa mùa an cư, nếu để                              y lại, thì phạm Ni-Tát-kì.                                                           - Ông đi về mất hết                              mấy ngày?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ði 2                              ngày, ở lại 2 ngày, trở về 2 ngày, tổng cộng mất hết                              6 hôm kể cả đi về.                                                           - Từ nay về sau các                              Tỉ-kheo được để y lại trong vòng 6 hôm.                                                           Ưu Ba Ly đến đó rồi,                              thấy sự đấu tranh khó mà giải quyết nhanh được, bèn                              trở về, đảnh lễ chân Phật, đứng hầu một bên. Phật                              biết nhưng vẫn hỏi: "Ưu Ba Ly, vì sao ông đi về                              nhanh vậy? Sự đấu tranh đã dập tắt xong chưa?"                                                           - Dạ chưa dập tắt,                              bạch Thế Tôn.                                                           - Vì sao vậy?                                                           - Sự tranh chấp khó                              dập tắt, không thể giải quyết nhanh được, lại sợ quá                              ngày, mất y (y phạm qui định), phạm Ni-Tát-kì, cho                              nên con phải trở về.                                                           - Từ nay Ta cho phép                              được sống cách ly với y trong một tháng, nhưng Tăng                              phải làm Yết- ma cho phép được sống cách ly với y                              một tháng mà không vi phạm. Người làm Yết-ma nên nói                              như sau:                                                           "Xin Ðại đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Ưu Ba Ly nay đến nước Sa Kỳ vì                              Tăng dập tắt sự tranh chấp. Nếu thời gian thích hợp                              đối với Tăng, nay Tăng cho Ưu Ba Ly đến trước Tăng                              xin phép Yết-ma một tháng không mất y. Các Ðại-đức                              nào bằng lòng cho Ưu Ba Ly đến trước Tăng xin phép                              Yết-ma một tháng không mất y thì im lặng. Ai không                              bằng lòng hãy nói. Vì Tăng đã bằng lòng nên im lặng.                              Việc ấy cứ như thế mà [323b] thi hành.                                                           Thế rồi, đương sự                              phải đến trước Tăng xin, nói như sau:                                                            "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tôi là Tỉ-kheo Ưu Ba Ly muốn đến nước Sa                              Kỳ vì Tăng dập tắt sự tranh chấp, mong Ðại-đức Tăng                              cho tôi pháp Yết-ma một tháng không mất y".                                                           Xin như vậy đến lần                              thứ 2, thứ 3, rồi người làm Yết-ma nên nói:                                                            "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Ưu Ba Ly muốn đến nước Sa Kỳ                              vì Tăng dập tắt sự tranh chấp, đã đến trước Tăng xin                              pháp Yết-ma một tháng không mất y. Nếu thời gian                              thích hợp đối với Tăng, Tăng nay cho Ưu Ba Ly pháp                              Yết-ma một tháng không mất y. Ðây là lời tác bạch.                              Xin Ðại-đức Tăng lắng nghe. Trưởng lão Ưu Ba Ly muốn                              đến nước Sa Kỳ vì Tăng dập tắt sự tranh chấp, đã đến                              trước Tăng xin pháp Yết-ma một tháng không mất y.                              Các Ðại-đức nào bằng lòng cho Ưu Ba Ly pháp Yết-ma                              một tháng không mất y thì im lặng, ai không bằng                              lòng hãy nói. Ðây là lần Yết-ma thứ nhất, (lần thứ                              2, thứ 3 cũng nói như vậy).                                                           Tăng đã bằng lòng                              cho Ưu Ba Ly một tháng không mất y xong. Vì Tăng đã                              im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                                                           Sau đó Phật hỏi các                              Tỉ-kheo: "Ðã cho Ưu Ba Ly pháp Yết-ma một tháng                              không mất y chưa?".                                                           Ðáp: "Ðã cho".                                                           Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           -- "Khi 3 tháng hạ                              chưa xong, các Tỉ-kheo an cư tại A Luyện Nhã, nếu có                              sự kiện đáng lo sợ, nghi ngờ, thì có thể gởi một                              trong 3 y tại nhà dân. Tỉ-kheo có duyên sự được cách                              ly với y trong 6 hôm, nếu quá 6 hôm, trừ Tăng Yết-ma                              cho phép, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích                                                            - Ba tháng an                              cư: Từ 16 tháng tư đến 15 tháng 7.                                                           - Chưa xong:                              Chưa hết tháng cuối mùa hạ, nghĩa là Tỉ-kheo sống                              tại A Luyện Nhã chưa đến tháng cuối.                                                           - Chỗ A Luyện                              Nhã: Trong phạm vi đường kính 500 cung không                              có nhà của mục đồng, đó gọi là chỗ A Luyện Nhã.                                                           - Ðiều đáng lo                              sợ: Hoặc bị giết, bị cướp đoạt.                                                           - Ðiều nghi                              ngờ: Tuy không bị giết, bị cướp đoạt, nhưng                              trong lòng sinh nghi: "Không biết trong chốc lát nữa                              có kẻ nào đến giết người, lấy y không". Nếu Tỉ-kheo                              thấy có điều đáng nghi ngờ lo ngại như vậy, đó gọi                              là nghi ngờ.                                                           - Hoặc một                              trong 3 y: Hoặc y Tăng-già-lê,                              Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, nhưng không được gởi y                              Tăng-già-lê và An-đà-hội, mà nên gởi y                              Uất-đa-la-tăng tại nhà dân trong thôn. Tuy vậy,                              không được gởi nhà thế tục (không đáng tin) mà nên                              gởi nhà nào đáng tin, có thể lấy lại được. Nếu gởi                              gia đình khả nghi mà họ suy nghĩ: "Các Tỉ-kheo                              [323c] không chắc gì đã trở lại", thì nên đề phòng.                                                           Các Tỉ-kheo nếu vì                              việc tháp, việc Tăng thì được lìa y trong 6 đêm.                                                           - Sáu đêm:                              Thời hạn trong 6 hôm.                                                           - Trừ Tăng                              Yết-ma (cho phép): Thế Tôn dạy (nếu Tăng                              Yết-ma thì) không có tội. Nhưng nếu Tăng Yết-ma                              không thành tựu, thì không thể gọi là Yết-ma. Yết-ma                              không thành tựu nghĩa là: Chúng không thành tựu, tác                              bạch không thành tựu, Yết-ma không thành tựu. Nếu                              bạch thành tựu, Yết-ma thành tựu, chúng Tăng thành                              tựu thì gọi là Tăng làm Yết-ma.                                                           Nếu đã thọ Yết-ma                              giữa Tăng xong thì không nên ở lại đợi cúng dường,                              mà nên đi liền. Nếu trước bữa ăn làm Yết-ma thì sau                              bữa ăn nên đi. Nếu sau bữa ăn làm Yết-ma thì sáng                              sớm hôm sau nên đi. Lúc đi, không nên đi đường quanh                              ghé nhà đàn việt, mà nên đi đường thẳng. Nếu đường                              thẳng có tai nạn như tai nạn sư tử, tai nạn hổ lang,                              tai nạn trùng độc, tai nạn mất mạng, thì khi ấy đi                              bằng đường quanh không có tội.                                                           Khi đến đó rồi không                              được diên trì đợi khách Tỉ-kheo cúng dường ẩm thực.                              Nếu đến trước bữa ăn, thì sau khi ăn xong, tập họp                              chư Tăng diệt trừ sự tranh chấp. Nếu đến sau bữa ăn,                              thì sáng sớm hôm sau liền tập họp chư Tăng diệt trừ                              sự tranh chấp. Nếu sau bữa ăn giải quyết xong việc,                              thì sáng sớm hôm sau trở về. Nếu giải quyết xong                              công việc trước bữa ăn, thì sau bữa ăn trở về, không                              được ở lại đợi khách Tỉ-kheo cúng dường. Khi trở về                              không nên đi đường quanh mà phải trở về bằng đường                              thẳng. Nếu đường thẳng có tai nạn, thì như trên đã                              nói.                                                           Lúc mới đến đó không                              được tụng kinh, đun bát, nhuộm y. Nếu giải quyết                              công việc xong mà còn thì giờ thì được tụng kinh,                              làm các việc khác. Nếu sự việc khó giải quyết, thì                              trong thời gian lưu lại được tụng kinh, đun bát và                              nhận sự cúng dường ẩm thực của Tỉ-kheo khách, như                              vậy không có tội.                                                           Khi dập tắt sự tranh                              chấp không được dùng ý riêng mình áp đặt người ta mà                              phải ra giữa chúng sai người có khả năng, có uy đức                              thế tục (giúp giải quyết).                                                           Nếu ở A Luyện Nhã                              thì được gởi y trong nhà dân sáu hôm. Nếu quá sáu                              hôm thì phạm Ni-tát-kì Ba-dạ-đề. Vị Tỉ-kheo này muốn                              xả y thì nên thỉnh vị trì luật, như giới thứ nhất ở                              trên đã nói. Thế nên nói (như trên).                                                                                                                                                  29. GIỚI: BIỂN THỦ TÀI SẢN CỦA TĂNG.                                                           Khi Phật an trú tại                              thành Xá Vệ, có một Tỉ-kheo đến giờ khất thực bèn                              khoác y, cầm bát vào thành tuần tự khất thực, đến                              một nhà kia, có một phụ nữ nói với Thầy:                                                            - Thưa Tôn-giả, ngày                              ấy ..., con sẽ cúng dường chư Tăng và dâng y.                                                           Tỉ-kheo nói: "Lành                              thay, này chị em! Dùng 3 pháp không kiên cố là thân,                              mệnh và tài sản để đổi lấy 3 pháp kiên cố, vậy hãy                              thực hiện nhanh. Vì tài vật vô thường, có nhiều tai                              nạn".                                                           Nói thế rồi, Thầy                              liền trở về tinh xá, nói với các Tỉ-kheo: "Tôi muốn                              báo cho các vị một tin vui".                                                           Các Tỉ-kheo hỏi:                              "[324a] Có tin vui gì thế?"                                                           Thầy đáp: "Tôi nghe                              Ưu Bà Di mỗ giáp định cúng dường trai phạn và dâng y                              cho chư Tăng".                                                           Nhóm 6 Tỉ-kheo nghe                              thế rồi, liền hỏi: "Thầy vừa nói gì đó?"                                                           - Tôi nghe Ưu Bà Di                              mỗ giáp định cúng dường trai phạn và dâng y cho chư                              Tăng.                                                           - Thầy có biết nhà                              ấy ở nơi nào không? Nằm vào đường nào? Cửa hướng về                              phương nào?                                                           Hỏi cặn kẻ rồi, sáng                              sớm hôm sau, họ bèn khoác y, đi đến nhà ấy, hỏi: "Bà                              chủ có được yên ổn không?"                                                           Bà đáp: "Yên ổn".                                                           - Tôi nghe bà định                              cúng dường trai phạn và dâng y cho chư Tăng có thật                              thế không?                                                           - Thưa Tôn-giả, tôi                              có ý định ấy, nhưng e trong lúc chuẩn bị gặp nhiều                              sự khó khăn, không biết có thành tựu không.                                                           - Như tôi đây là                              người xuất gia trước, làm Tỉ-kheo đã lâu năm, nếu bà                              dâng y, tôi sẽ mặc đi tới các nhà hoàng tộc, hoặc                              đảnh lễ Thế Tôn. Nếu các nhà hào quí, hoặc ai đó hỏi                              tôi: "Ông được y đó ở đâu vậy?". Tôi sẽ đáp: "Do Ưu                              Bà Di mỗ giáp có tín tâm cúng dường", như vậy bà sẽ                              được tiếng tốt, mọi người đều biết đến bà.                                                           - Gia đình con lại                              không có vật nào nữa, vì con đã định cúng dường chư                              Tăng, nếu cúng riêng cho Thầy thì con sẽ phạm lỗi                              thất hứa cúng cho Tăng. Nếu con có (y khác), con sẽ                              cúng riêng cho Thầy, vì cúng cho Thầy cũng như cúng                              cho chư Tăng.                                                           - Cúng hay không                              cúng tùy ý bà!                                                            Nói thế rồi, Thầy                              liền ra đi. Khi Thầy đi rồi, Ưu Bà Di suy nghĩ: "Nếu                              Ta cúng dường cho Tỉ-kheo ấy mà không cúng dường cho                              chư Tăng, vốn là ruộng phước tốt (thì không ổn),                              nhưng nếu Ta không cúng dường cho Tỉ-kheo ấy mà                              Tỉ-kheo ấy vốn có nhiều thế lực với vương gia thì                              ông ấy có thể gây cho Ta sự bất lợi". Nghĩ như vậy                              nên bà không cúng dường cho Tăng, và vì giận Tỉ-kheo                              ấy nên cũng không cúng dường cho Thầy.                                                           Các Tỉ-kheo nghe                              thế, bèn đem việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo                              gọi Nan Ðà, Ưu-ba-nan-đà đến. Khi họ đến rồi, Phật                              hỏi rõ các việc trên: "Các ông có việc đó thật                              chăng?"                                                           Họ đáp: "Có thật như                              vậy".                                                           Phật khiển trách:                              "Ðó là việc xấu, có 2 điều không ổn:Một là khiến cho                              người bố thí mất phước; Hai là người nhận mất y".                                                           Rồi Phật nói với Nan                              Ðà, Ưu-ba-nan-đà: "Các ông không từng nghe Ta dùng                              vô số phương tiện khen ngợi thiểu dục, chê trách đa                              dục hay sao? Ðó là điều phi pháp, phi luật, trái lời                              Ta dạy, không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện                              pháp được".                                                            Ðoạn Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                                                           --"Nếu Tỉ-kheo biết                              vật đó thí chủ định cúng dường cho Tăng mà tự xoay                              về cho mình, thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề".                                                           Giải thích:                                                           - Biết:                              Hoặc tự biết, hoặc nghe từ người khác.                                                           [324b] Vật:                              Gồm có 8 loại:                                                            1- Thức ăn dùng đúng                              giờ, 2- Thức uống dùng buổi tối; 3- Thuốc dùng trong                              7 ngày; 4- Thuốc dùng suốt đời; 5- Vật vặt vãnh; 6-                              Vật nặng nề; 7- Vật không hợp pháp; 8 - Vật vừa hợp                              pháp vừa không hợp pháp.                                                           - Vật định                              cúng Tăng: Ý thí chủ định chọn những vật đó                              để cúng cho Tăng.                                                           - Tăng:                              Gồm 8 thành phần: 1- Tỉ-kheo-Tăng; 2- Tỉ-kheo Ni                              Tăng; 3- khách Tăng; 4- Tăng ra đi; 5- Tăng cựu trú;                              6- Tăng an cư; 7- Tăng hòa hợp; 8- Tăng không hoà                              hợp.                                                           - Tự xoay về                              cho mình: Tự thu vào, tự cất chứa, tự sử                              dụng. Nếu như vậy thì phạm Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề. Vật                              này phải đem thí xả giữa chúng Tăng, rồi sám hối tội                              Ba-dạ-đề. Nếu không thí xả mà sám hối thì phạm tội                              Việt-tì-ni.                                                           Nếu có người định                              cúng dường, đến hỏi Tỉ-kheo:                                                            - Thưa Tôn-giả, tôi                              định cúng dường mà không biết nên cúng dường nơi                              nào?                                                           Tỉ-kheo nên đáp:                                                            - Tùy ý bà kính                              trọng nơi nào thì cúng dường nơi đó.                                                           - Nơi nào được quả                              báo nhiều?                                                           - Cúng dường Tăng                              được quả báo nhiều.                                                           - Chư Tăng nào giữ                              giới thanh tịnh, có nhiều công đức?                                                           - Tăng không phạm                              giới không mất thanh tịnh.                                                           Nếu có người đem                              phẩm vật đến cúng dường, Tỉ-kheo nên bảo: "Cúng cho                              Tăng được quả báo lớn". Nếu họ nói: "Con đã từng                              cúng cho Tăng rồi, nay con muốn cúng cho Tôn-giả",                              thì Tỉ-kheo nhận, không có tội.                                                           Nếu thí chủ hỏi                              Tỉ-kheo: "Con nên cúng dường vật này cho người nào                              để vật cúng này của con được sử dụng luôn?"                                                           Khi ấy, Tỉ-kheo nên                              nói: "Tỉ-kheo mỗ giáp là người tụng kinh, giữ giới,                              tọa thiền, nếu cúng cho Thầy ấy thì sẽ được sử dụng                              thường xuyên".                                                           Nếu biết vật đó thí                              chủ định cúng cho Tăng mà xoay về cho mình thì phạm                              Ni-Tát-kì Ba-dạ-đề. Nếu xoay về cho người khác thì                              phạm Ba-dạ-đề. Nếu biết vật đó họ định cúng chúng                              Tăng này mà khiến họ cúng chúng Tăng khác thì phạm                              tội Việt-tì-ni.                                                           Nếu biết họ cúng cho                              nhóm người này mà khiến họ cúng nhóm người khác, thì                              phạm tội Việt-tì-ni.                                                           Nếu biết vật đó cúng                              cho súc sinh này mà xoay xở hướng về súc sinh khác                              thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối.                                                           Cái vật mà Tỉ-kheo                              đã xoay về cho mình (đã nói ở trên), Tăng không được                              cho ai mà phải sử dụng. Thế nên nói (như trên).
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
