Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

QUYỂN VIII 

III. KHAI THỊ BA TIỆM THỨ TU TẬP

Kinh : “Anan, như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa đốm cuồng loạn phát sanh, Chân Tâm tròn sáng trong sạch nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Đề của Phật thì đối với các loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro, chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.

“Thế nào là ba món tiệm thứ ? Một là, tu tập trừ các Trợ Nhân. Hai là, chân tu, nạo sạch Chính Tính. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp.

Thông rằng : Mười hai thứ Điên Đảo đều từ trong Chân Tâm minh tịnh biến khởi. Bắt đầu trong một niệm Ái Thủ. Có Thương thì có Ghét, có Thủ thì có Xả. Do đó, bốn thứ Thai, Nỗn, Thấp, Hóa đều do Tình, Tưởng, nặng nhẹ tùy theo mỗi loài.

Các loài Hữu Sắc, Vô Sắc, Hữu Tưởng, Vô Tưởng chỉ là hai câu Hữu, Vô. Nhưng do cái Tưởng mà sanh hóa, thì Tưởng càng ngày càng vi tế, sự sanh hóa càng lần lần thuần khiết. Các loài hoặc chẳng phải Hữu Sắc, hoặc chẳng phải Vô Sắc, hoặc chẳng phải Hữu Tưởng, hoặc chẳng phải Vô Tưởng gồm ở trong ấy hai cái “Cũng Là”, hai cái “Chẳng Phải”. Quả là do Tình mà biến hóa, Tình càng vướng mắc thì càng biến hóa càng khổ. Tình, Tưởng, Thương, Ghét phô bày lẫn lộn, không loài nào chẳng có, nên trong mỗi loài mỗi mỗi đều đủ mười hai thứ điên đảo.

Tình, Tưởng giống như mắt nhặm; Điên Đảo giống như hoa đốm lăng xăng. Hoa đốm lăng xăng ở trong hư không mà chẳng ngăn ngại được hư không. Điên Đảo ở trong Chân Tâm Diệu Viên mà chẳng thể chướng ngại Tánh Diệu Viên. Dù đủ loạn tưởng hư vọng thế kia, rốt ráo nơi Chân Tâm minh tịnh chẳng hề ngăn ngại, rồi sau thấy được cái Diệu Viên vậy. Chân Tâm Diệu Viên tức là Tam Ma Địa, rỗng suốt nhiệm mầu bao la như hư không tạnh ráo. Mười hai thứ Điên Đảo chỉ do sáu Vọng Tưởng hỗn loạn làm Bổn Nhân. Mắt nhặm nếu trừ, hoa cuồng tự dứt.

Nhưng trừ loạn tưởng phải lập ra ba món tiệm thứ. Vì sao ? Vì như một cái bình sạch, vốn là đồ chứa đựng nước cam lồ, một khi bị mật độc nhiễm dơ mà đổ ngay cam lồ vào thì cam lồ trở thành thuốc độc. Ắt là phải súc rửa bằng nước sôi cọng với tro, chất thơm cho trơn sạch, trải qua tháng năm, thì độc khí dần dần tiêu, cam lồ mới có thể cho vào. Ba món tiệm thứ này chính là nước sôi, tro, chất thơm để rửa sạch loạn tưởng vậy.

Bốn thứ khuyên dạy ở trước là Sát, Đạo, Dâm, Vọng đã đủ Chánh Giới, đây lại trừ Trợ Nhân của Dâm, Nộ, Si, nạo sạch cái Chánh Tính của Sát, Đạo, Dâm, Vọng, dần dần xa lìa Vô Minh hiện hành. Do đấy tăng tiến, ngược dòng toàn nhất, sáu cái Dụng chẳng hiện hành, trái nghịch Hiện Nghiệp thì tâm không trôi dạt. Tình ái khô khan, loạn tưởng không tự khởi lên thì Điên Đảo lấy đâu mà sanh ? Chỉ một Chân Tâm rồi sau mới lập các Thánh vị. Bốn mươi bốn Tâm để nhập chân Tam Ma Địa của Diệu Giác. Cũng như mật độc đã tiêu, bèn chứa được cam lồ vậy.

Thiền sư Đại Tùy Chân thượng đường nói : “Tánh này vốn xưa nay thanh tịnh, sẵn đủ muôn đức. Chỉ bởi hai duyên nhiễm, tịnh mà có sai khác. Cho nên các Thánh ngộ nó thì cứ một bề dùng trong sạch mà thành đạo Giác. Người phàm mê nó thì cứ một bề dùng dơ nhiễm mà chìm đắm luân hồi. Thể nó không hai, nên kinh Bát Nhã nói “Không hai, không hai phần vì không riêng không dứt vậy”.

Nếu tin được lời nói của Ngài Đại Tùy, “Thể nó không hai”, thì vốn là một bình chứa tinh sạch, chứa độc mật chẳng có hao bớt mà đựng cam lồ cũng chẳng tăng thêm. Thẳng đến Bồ Đề Vô Thượng, nhiễm tịnh đều không dính dáng, thì sau có dẹp bỏ chỗ nói về ba món tiệm thứ cũng không phải là không thể được vậy. 

Kinh : “Thế nào là Trợ Nhân ? 

“Anan, mười hai loài chúng sanh đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực, Thức Thực. Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương cái ăn mà sống còn. 

“Anan, tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy những chúng sanh cầu Tam Ma Đề phải dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian, những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ Vương thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê phá Cấm Giới, khen Dâm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến thuộc Ma Vương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục Vô Gián. Anan, người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm thứ rau cay. 
“Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

Thông rằng : Đoạn Thực cũng gọi là Đoàn Thực, nghĩa là lấy tay viên tròn lại mà ăn. Nhưng có thứ không thể vê tròn nên đổi thành đoạn. Đoạn là cắt ra từng khúc, như dao cắt. Các thức ăn cơm, bún, rau... ăn theo lối cắt. Đó là cách ăn của con người.

Xúc Thực là ăn theo lối Căn, Cảnh, Thức tiếp xúc nhau mà thành. Chỉ tiếp xúc cái khí vị mà thôi, đó là cách ăn của Quỷ Thần. 

Tư Thực là cõi Thiền Thiên không có Đoạn Thực, chỉ có ăn bằng tư tưởng, nên nói “Nghĩ đến ăn thì được ăn”.

Thức Thực là cõi Vô Biên Xứ, không ăn bằng tư tưởng mà chỉ có cái Thức biết ăn, Thức thủ (hiểu lấy) mùi vị Pháp đầy đủ nên no.

Các lối ăn Xúc, Tư, Thức Thực cũng đều có thể nuôi sống như đoạn thực, nên nói “Đều nương theo cái ăn mà sống còn”. Bộ Hiệp Luận nói : “Thức thực là A Lại Da Thức nương theo ba cách ăn trước mà tồn tại. Làm sao để biết ? Năm Thức trước là Tướng Phần Tự Chứng của A Lại Da. Thức Thứ Sáu và Thức Thứ Bảy là Kiến Phần Tự Chứng của A Lại Da. Phạm vi của năm Thức trước nương vào Đoạn Thực. Thức Thứ Sáu phân biệt nương vào Xúc Thực. Thức Thứ Bảy nương vào Tư Thực. Cho nên Thức Thực nương vào ba loại ăn trước mà tồn tại”.

Tất cả chúng sanh ăn thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết, thì há năm loại rau cay nhớp mà không trợ Dâm, sanh Giận ư ? Rốt cục Trời, Tiên xa lánh, thường ở với Quỷ, cũng chẳng khác gì ăn thức ăn độc. Nhưng Dâm, Giận ngày càng tăng, hẳn là chê phá Cấm Giới, đọa vào ngục Vô Gián. Như vậy há có thể không cẩn thận ngay ở chỗ vi tế ư ?

Hòa Thượng Kim Ngưu mỗi lần đến giờ ăn, tự đem thùng cơm đến trước tăng đường, múa cười ha hả mà rằng : “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm !”

Ngài Tuyết Đậu nói : “Tuy nhiên như thế, Kim Ngưu chẳng phải hảo tâm !”

Nhà sư hỏi Tổ Trường Khánh : “Cổ nhân nói “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm”, ý chỉ như thế nào ?”
Tổ Khánh nói : “Cũng giống nhân bữa ăn mà ca mừng”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Trong bóng mây trắng cười ha hả
Hai tay bưng đến trao người ta
Nếu quả Kim Mao Sư Tử nhỏ
Ngoài ba ngàn dặm thấy sai ngoa”.

Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu : “Kẻ học nhơn mới vào tùng lâm, xin thầy chỉ bày cho”.
Tổ Châu nói : “Vậy ăn cháo rồi chưa ?”
Vị tăng : “Dạ, ăn rồi”.
Tổ Châu nói : “Thì rửa chén bát đi !”
Vị tăng tỉnh ngộ.
Tổ Vân Môn nói : “Hãy nói là có chỉ bày hay không chỉ bày ? Nếu nói có thì Triệu Châu nói cái gì với ông ta vậy ? Nếu nói không thì vì sao vị tăng kia lại ngộ ?”
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

“Cháo xong thì dạy rửa bát đi
Rỗng rang tâm địa tự dung thông
Như nay, khách tham thiền no đủ
Thử hỏi khoảng này có ngộ không ?”.

Hợp lại chỗ đề xướng của các vị lão túc để rõ ràng mùi mẽ, thì dầu trăm thứ món ngon của lạ cũng cần móc ói ra, huống chi thứ thuốc độc năm loại rau cay há có thể cho vào miệng ư ? 

Kinh : “Thế nào là Chính Tính ? 

“Anan, chúng sanh như thế vào Tam Ma Đề trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng Dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. 

Anan, người tu hành đó, nếu chẳng đoạn Dâm Dục và Sát Sanh mà ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự Dâm Dục như rắn độc, như thấy giặc thù. 

“Trước hết, hãy giữ gìn Tứ Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh Văn, nắm giữ thân chẳng động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát, nắm giữ tâm chẳng khởi. 

Giới Cấm thành tựu thì trong thế gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời trước trong thế gian. 

Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa, ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm. 

“Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

Thông rằng : Sát, Đạo, Dâm sao gọi là Chính Tính ? 

Kinh Viên Giác nói : “Hết thảy chúng sanh đều lấy Dâm Dục mà “chính(01)” tánh mạng”. Vì Chánh Báo của chúng sanh do cảm lấy Dâm Dục mà sanh ra, nên lấy Dâm Dục làm Chính Tinh, tức là ở trước có nói Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp. Lại vì đối với Trợ Nhân mà nói, nên gọi là Chánh Tính. Nói là Nạo Sạch, ví như nạo khoét cây làm thuyền, dần dần làm cho trống không để mang chở. Nên Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp đều không mới hợp với nghĩa nạo vét.

Cái Căn Dâm rất khó đoạn, phải xem như rắn độc, vì hại đến Pháp Thân vậy. Phải thấy như giặc thù vì làm tổn thương Huệ Mạng. Trước giữ Giới Thanh Văn khiến không có thân phạm. Sau giữ Giới Bồ Tát khiến không có tư tưởng phạm. Cấm Giới thành tựu thì Giới mà không có chỗ Giới. Dâm dứt thì không còn Nghiệp tương sanh. Sát dứt thì không có Nghiệp tương sát. Trộm cắp dứt thì không có Nghiệp trả nợ. Ngay nơi thân tâm này sáu Căn thanh tịnh, không cần Thiên Nhãn mà chứng Ngũ Thông. Nhãn Thông nên xem thấy mười phương. Nhĩ Thông nên nghe Phật thuyết pháp. Thần Thông nên có thể dạo khắp mười phương cõi. Túc Mạng Thông nên không có khó khăn nguy hiểm. Tha Tâm Thông, tự tại ở trong ấy. Duy chỉ có Lậu Tận Thông thì không dễ chứng. Chỗ này giống kinh Pháp Hoa dạy rằng : “Thân hiện tại được sáu Căn thanh tịnh tức là địa vị tương tự. Thế thì nghiêm giữ Giới Luật thanh tịnh đâu có thể tự trễ nải ư ?”

Thiền sư Dũng Tuyền Hưng thượng đường nói : “Tôi bốn mươi chín năm ở trong ấy mà còn tự có khi lộn xộn (tẩu tác). Này các ngươi chớ múa mỏ khua môi. Người kiến giải thì nhiều, người hành giải cả vạn, trong đó không có một người hiểu rõ lời lẽ biết suốt cái cần yếu. Nếu Thức chẳng hết, dám nói hết chuyện luân hồi ư ? Vì sao như vậy ? Bởi vì Thức Lậu chưa hết. Ông mà hết sạch ngay giờ mới được thành lập. Cũng gọi là Lập Trung Công, chuyển công tựu thành cái kia. Cũng gọi là Tựu Trung Công, thân với cái kia vậy. Bởi thế, tôi mới nói : Người thân chẳng được độ, hắn chẳng độ người thân. Thí dụ như vậy còn chẳng hiểu thì chỉ tiến lên hít lấy cái hơi mù mịt, chỉ nắm giữ cái tánh loạn động nơi đầu lưỡi. Chẳng thấy Tổ Động Sơn nói “Tương tục, ấy là đại nạn”. Các ông cần biết có sự việc này, nếu không biết, có ngày rồi khóc lóc !”

Mới biết rằng Giới Hạnh dũng mãnh, cốt yếu là dứt sạch tức thì, chuyển công thành vị, vào Tam Ma Địa. Chẳng thế thì dùng huyễn để tu huyễn, uổng công siêng nhọc, ăn nhằm gì đến Tự Tánh đâu ! 

Kinh : “Thế nào là Hiện Nghiệp ? 

“Anan, người giữ gìn Cấm Giới thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần ở ngoài không hay giong ruổi theo. Do không giong ruổi nên tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành. Mười phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng diệu viên, được đại an ổn. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát Hạnh mà an lập các Thánh vị. 

“Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.

Thông rằng : Hiện Nghiệp là Nghiệp tạo ra của Vô Minh hiện hành, tức là các Nghiệp Sát, Đạo, Dâm ở trên.

Giữ Cấm Giới thì đối với sáu Trần ở ngoài chẳng hay giong ruổi theo, hay đoạn trừ phiền não khách trần, hay trừ được Kiến Hoặc. Trần đã chẳng duyên theo thì Căn không chỗ gặp hợp, hay phá Vô Minh vi tế, hay trừ được Tư Hoặc. Chưa trừ hai cái Hoặc thì cũng còn tùy thuận theo Hiện Nghiệp, chưa chịu nghịch lại. Giờ tự quay vào lặng trong, nghịch lại với Hiện Nghiệp vậy. Vì giong ruổi nên sáu Dụng hiện hành, thế là trái với Giác, hợp với Trần thành sáu Vọng Tưởng loạn khởi ra Nghiệp hiện giờ. Bởi ngược dòng nên sáu Dụng chẳng hiện hành, thế là trái với Trần, hợp với Giác thành một Tánh trong lặng tròn sáng, Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Lý mật trí viên tịnh hành nhiệm mầu phù hợp không dấu vết. Pháp Thân thanh tịnh như ngọc lưu ly. Chân Trí trong suốt giống như trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, Căn, Cảnh đều dung thông, Diệu Viên bình đẳng, được đại an ổn bèn được Vô Sanh Pháp Nhẫn mà vào Tam Ma Địa. Từ đó tiệm tu, an lập Thánh Vị cho đến bậc Đẳng Giác.

Cái Giác này mới được vị Càn Tuệ Địa ban đầu trong Tâm Kim Cang, bèn chứng Tam Ma Địa của Phật, cứu xét tận hết bổn nhân, cùng tột vị Diệu Giác vậy. Đây là chỗ bước vào, đoạn văn sau là chỗ tu, rốt ráo chỗ chứng, đều là Tam Ma Địa của Phật, đó gọi là “Cửa vào một đường Niết Bàn của mười phương Chư Phật”.

Chỗ này cốt ở Đốn Chứng, cớ sao lại lập thêm các món tiệm thứ để tăng tiến ? Bởi vì Lý cần Đốn Ngộ, Sự theo đó lần hồi dứt trừ. Trước hết, trừ cái Trợ Nhân, kế nạo sạch Chánh Tánh, rồi trái với Hiện Nghiệp. Tất cả đều ở trên Sự mà tiêu dung dần dần. Cảnh càng vào Chân thì công phu càng thêm tế mật. Tuy chủ Đốn Ngộ, chẳng bỏ Tiệm Tu. Đây là gồm trọn cả ba căn Thượng, Trung và Hạ nên là Pháp Môn Viên Đốn vậy.

Thiền sư Kính Sơn Liễu Nhất thượng đường, nói: “Người học Đạo chạm cảnh, gặp duyên mà không thể lập tức thấu thoát (tỏ suốt) đều vì Nghiệp Thức sâu nặng, Vọng Tình gắn chặt. Sáu cửa chưa dứt thì một chỗ chẳng thông. Cái Tánh thuần túy trong sạch không một điểm vết thì phàm phu khó đến. Cần ngay “Vào rừng không động lá, vào nước không nổi sóng” mới có thể thuận dòng sanh tử, vào với nhân gian. Chư vị ơi, có hiểu chăng ?”

Bèn lấy cây gậy quơ vẽ mà nói : “Chỉ hướng trong ấy mà tiến nhận”.

Giả sử có tay nào ở đây tiến nhận được, giống như lưu ly trong sạch ngậm trăng sáng ở trong, thì có gọi là người xong việc không, nhỉ ? 

Chẳng thấy Tổ Nam Tuyền đang cùng Ngài Triệu Châu thưởng trăng.

Ngài Châu nói : “Bao lâu thì được tương tự như cái kia ?”

Tổ Tuyền nói : “Vương lão sư này hai mươi năm trước đã từng như vậy đó”.

Ngài Châu : “Nay thì sao ?”

Tổ Nam Tuyền bèn quay về phương trượng.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Hai mươi năm trước để yên đó. Hai mươi năm sau làm sao đây ? Có biết chỗ bước của Vương lão sư chăng ? Trong nhà không linh sàng, vợ đâu mặc đồ tang !”
Ôi, “Thanh tịnh như lưu ly bên trong treo trăng sáng” tức là chỗ đoạn sau nói “Càn Tuệ Địa” vậy. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó thì chỗ thấy chốn nào chẳng sáng tỏ, nhưng còn thiếu bước dẫm đi. Thế nên, có biết chỗ dẫm đi của Tổ Nam Tuyền thì hai mươi năm trước được tương tự cái kia cũng là chưa xong.

Xem mục lục