Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

1.CÀN HUỆ ĐỊA.

A Nan, người thiện nam ấy ái dục khô khan, căn cảnh chẳng dính hợp, thể chất còn sót hiện tại không tiếp tục sanh nữa. Giữ cái tâm rỗng sáng, thuần là trí huệ, tánh huệ tròn sáng khắp mười phương cõi. Mới có cái huệ khô khan, gọi là Càn huệ địa, tập khí năm dục mới khô, chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của Như Lai.

…………………………..

Do dụng công khiến căn cảnh chẳng dính hợp, khiến sự rong ruổi không còn tiếp tục sanh, bấy giờ tâm trở nên rỗng sáng, thấy sáng khắp mười phương cõi.

Do vậy mà thấy từ xa Pháp thân Kim cương. Đây là sự tiếp xúc ban đầu từ xa. Chữ ‘‘xa’’ này lấy trong Kinh, chẳng hạn, ‘‘Giác ngộ, Niết bàn còn cách xa xôi’’ (Bồ đề, Niết bàn thượng tại diêu viễn-quyển Bốn). Hoặc ‘‘Nay ông muốn cái thấy, nghe, hay, biết xa hợp (viễn khế) với bốn đức Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai’’-quyển Bốn.

Từ Càn huệ địa, trải qua bốn mươi địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và trong bốn Gia hạnh vị thì chỉ tiếp xúc, thấy biết gián tiếp Như Lai tạng diệu chân như tánh. Gián tiếp vì phải qua dụng công, qua thức, qua phiền não chướng và sở tri chướng đang còn, cho nên ngài Thiên Thai Trí Khải gọi là Tương tự giác, giác chỉ tương tự.

Phải vào Thập địa, từ Sơ địa trở lên mới trực tiếp thấy biết Pháp thân Như Lai tạng diệu chân như tánh. Ngài Thiên Thai gọi Thập địa là Tùy phần giác, vì giác được từng phần Pháp thân. Vì chung một phần Pháp thân với chư Phật mới được gọi là Phật tử.

Tuy Sơ tâm Càn huệ địa này là mặt trăng thứ hai, nhưng mặt trăng thứ hai này cũng từ mặt trăng thật mà có, không nằm ngoài mặt trăng thật. Quá trình điều chỉnh cho mặt trăng thứ hai trở về với mặt trăng thật nhanh hay chậm là tùy thiện căn của từng người.

……………………………………

I.THẬP TÍN.

1.Tức lấy cái tâm này, ngay chính giữa dòng nhập vào, theo cái diệu viên chân thật, càng phát thêm chân diệu. Diệu tín thường trụ, tất cả vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung đạo thuần chân, gọi là Tín tâm trụ.

……………………………………

‘‘Tức lấy cái tâm này’’, nghĩa là từ sơ tâm cho đến tâm tối hậu cũng chỉ là Một Tâm.

Lấy cái tâm mới khô căn cảnh này, ngay chính giữa dòng nhập vào, theo tánh diệu viên, càng thêm sáng rõ. Đây là niềm tin thường còn, vì đã thấy từ xa chân tánh diệu viên.

Khi đã có niềm tin bèn là có ý an trụ vào đó, cho nên mới gọi là Tín tâm trụ.

………………………………………

2. Chân tín sáng tỏ, tất cả đều viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới không thể làm ngại. Như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ vị lai, tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ở trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ nghĩ được, không quên mất, gọi là Niệm tâm trụ

…………………………………….

Niềm tin chân chánh được sáng tỏ, không còn bị ấm, xứ, giới, nghĩa là cảnh, làm ngại. Do đó mà có thể nhớ được các kiếp quá khứ nghĩ được các kiếp vị lai. Sở dĩ có được sự nhớ (niệm) này là do sự sáng tỏ của tâm.

…………………………………..

3. Diệu viên thuần chân, chân tinh phát hóa khiến các tập khí vô thủy thông thành một tinh minh. Chỉ dùng tinh minh ấy tiến đến chỗ chân tịnh, gọi là Tinh tiến tâm.

………………………………….

Các tập khí thông thành một tinh minh sáng tỏ, nhắm theo sự sáng tỏ của tinh minh mà tiến tới để minh càng ngày càng tịnh khiến tập khí tiêu dần.

……………………………………

4. Tâm tinh hiện tiền, thuần dùng trí huệ, gọi là Huệ tâm trụ.

………………………………….

Tâm tinh có thể dịch là sự thuần túy, tinh chất của tâm, chưa phải là tâm tánh, tức bản tánh của tâm.

Nói là hiện tiền, nhưng thấy mà chưa rõ, chưa thật thấy, mờ ảo khi có khi không. Nếu so với hiện tiền địa thứ 6, thì ở địa ấy mới thật thấy, luôn luôn hiện tiền.

…………………………………

5. Nắm giữ trí được sáng suốt, lặng trong cùng khắp, thường lặng đứng nhiệm mầu, gọi là Định tâm trụ.

…………………………………

Còn phải giữ gìn cho sáng, cho thường thì vẫn còn ở nơi thức, chưa thật vào trí. Kinh Lăng Già nói: ‘‘Cái sanh diệt là thức, cái chẳng sanh diệt là trí’’.

……………………………………

6. Ánh sáng của định phát sáng, dùng cái sáng ấy mà thâm nhập, chỉ có tiến chớ không lui, gọi là Bất thối tâm.

……………………………………..

Tin thì thấy sáng, nương theo cái sáng ấy mà thâm nhập, để có lúc thấu vào tánh giác.

……………………………………

7. Tâm tiến tới một cách an nhiên, giữ gìn không cho mất, giao tiếp với khí phần của mười phương Như Lai, gọi là Hộ pháp tâm.

…………………………………….

Giữ gìn không cho mất trong khi vẫn tiến tới, đó là giữ gìn pháp, hộ pháp. Giao tiếp với khí phần, tức là Sắc thân gồm Báo thân và Hóa thân, mà sắc thân thì sanh diệt, chứ chưa phải là Pháp thân, tức Phật tánh.

……………………………………..

8. Giữ gìn cái giác sáng tỏ, có thể dùng diệu lực xoay từ quang của Phật lại nơi mình, hướng về Phật mà an trụ, như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các bóng diệu mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi hướng tâm.

……………………………………..

Tâm đã sáng tỏ thì có thể tiếp nhận ánh sáng từ bi của Phật, như gương này đã sáng thì có thể phản chiếu áng sáng gương kia. Nếu gương sáng hoàn toàn thì phản chiếu hoàn toàn gương tâm hay Giác ngộ của Phật.

Đây mới ở giai đoạn Thập tín, nhưng Thập tín cũng ở trên Pháp thân Phật hay Tâm Phật. Thập tín vẫn luôn luôn thông với  Pháp thân Phật, thế nên từ một cấp trong Thập tín có thể tương ưng được ngay và hoàn toàn với Giác ngộ của Phật.

……………………………………..

9. Tâm quang thầm xoay trở lại, được chỗ thường lắng đọng vô thượng diệu tịnh của Phật, an trụ vô vi, được không bỏ mất, gọi là Giới tâm trụ.

……………………………………….

Ánh sáng của tâm thay vì phóng theo các trần tướng bên ngoài thì xoay lại gần với chỗ tịch tịnh của Phật. Giữ được ánh sáng an trụ như vậy không bỏ mất, gọi là Giới.

……………………………………….

10. Tự tại an trụ nơi giới ấy, có thể dạo khắp mười phương, đi đến đâu tùy theo nguyện, gọi là Nguyện tâm trụ.

………………………………………

An trụ được nơi giới là ánh sáng của tâm, thì có thể đi khắp mười phương tùy theo ý nguyện. Sự tự tại theo ý nguyện này là do sức mạnh của ánh sáng tâm.

Theo Kinh Hoa Nghiêm dạy về Viên giáo, thì ‘‘lúc sơ phát tâm liền thành Chánh giác. Biết tất cả pháp tức là tự tánh của tâm, thành tựu huệ thân chẳng do người khác’’ (Phẩm Phạm Hạnh, thứ 16), cho thấy rằng ở cấp độ nào cũng có thể trực tiếp thành Phật. Vấn đề là đầy đủ thiện căn Phật pháp để thành tựu hay chưa.

……………………………..

II. THẬP TRỤ.

1. A Nan, người thiện nam đó dùng phương tiện chân chánh phát mười cái tâm ấy, tâm tinh phát sáng, mười cái dụng ấy xen lẫn với nhau viên thành một tâm, gọi là Phát tâm trụ.

……………………………………

Còn dùng phương tiện, nghĩa là chưa y trên tánh mà tu, cái này sẽ là sự tu của hàng Thập địa, một khi đã trực biết thấy tánh tức thấy Pháp thân. Phát mười cái tâm ấy, cái tâm có phát thì chỉ là tâm tương tự, giác tương tự. Sự viên thành một tâm này do vậy chưa phải là Một Tâm Pháp thân của Phật và chúng sanh, của phàm thánh trời người. Ở hàng Thập địa thì mười cái tâm ấy có sẵn trong Pháp thân, và Một Tâm Pháp thân ấy có sẵn, không phải tập hợp lại rồi viên thành.

Xác định cho rõ như vậy để thấy cần phải tăng tiến hơn mà bước vào Thập địa Pháp thân, chứ không phải để bỏ qua không tu Tam Hiền, là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng.

……………………………………..

2. Trong tâm phát sáng như ngọc lưu ly thanh tịnh, ở trong hiện ra sắc vàng ròng. Dùng cái diệu tâm ở trước sửa sang thành địa, gọi là Trị địa trụ

………………………………….

Trụ nơi tâm phát sáng thanh tịnh mà sửa sang, đối trị để tâm thành tâm địa an trụ vững vàng.

………………………………………

3. Tâm địa thông biết, đều được tỏ rõ, dạo đi mười phương được không ngăn ngại, gọi là Tu hành trụ.

……………………………………….

Khi tâm địa đã sáng bèn có thể dạo đi mười phương, mắt đã sáng nên chốn chốn đều thấy được, đều học được, nên gọi là tu hành.

……………………………………….

4. Hạnh đồng với Phật, nhận khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ, âm thầm thông vào dòng giống Như Lai, gọi là Sanh quý trụ.

……………………………………..

Tu hành là tu hạnh Phật nên hạnh ấy đồng với Phật mà nhận khí phần của Phật. Thân trung ấm là thần thức, thầm thông vào dòng giống Phật là thông qua khí phần, chưa phải thông qua pháp thân. Sanh vào Pháp thân thì được gọi là ‘‘sanh vào nhà Như Lai’’, hay nói theo ngài Tu Bồ Đề trong Kinh Đại Bát Nhã: ‘‘Con từ miệng Phật sanh, từ Pháp hóa sanh’’.

…………………………………….

5. Đã vào đạo thai, chính mình được nối dõi dòng Giác, như thai đã thành, tướng người không thiếu khuyết, gọi là Phương tiện cụ túc trụ.

………………………………………

Như thai đã thành tướng người không thiếu khuyết, được nối dõi dòng giống giác ngộ, đầy đủ phương tiện để có thể ‘thành tựu’ Pháp thân.

……………………………………….

6. Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng, gọi là Chánh tâm trụ.

……………………………………..

Dung mạo như Phật, sự biểu lộ nơi thế gian là sự hiện hành của trí huệ và từ bi. Tâm tướng là trí huệ và từ bi. Chánh tâm là tâm chân chánh do tu mà có, chưa phải là tâm Như Lai tạng diệu chân như tánh vốn chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên.

Ở Thập trụ thì mới ‘‘giống như’’ nhưng chưa phải ‘‘thật là’’.

…………………………………..

7. Thân tâm hợp thành, mỗi ngày càng tăng trưởng, gọi là Bất thối trụ.

………………………………….

Thân tâm hợp nhất, thân như thế nào thì tâm như  vậy, tâm như thế nào thì thân như vậy. Thân tâm ấy giống như Phật, mỗi ngày càng tăng trưởng.

…………………………………

8. Linh tướng của mười thân cùng lúc đầy đủ, gọi là Đồng chân trụ.

…………………………………….

Mười thân Phật theo Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37, là :

1/ Thân vô biên ở khắp như hư không.

2/ Thân quang minh chiếu khắp mà không nhiễm trước.

3/ Thân làm lợi ích khắp.

4/ Thân bình đẳng ứng cơ.

5/ Thân công đức quang minh làm thiện căn chúng sanh được đầy đủ.

6/ Thân như mặt trăng hiện bóng khắp

7/ Thân một nhiều vô ngại.

8/ Thân không có động niệm mà thành tựu Phật sự.

9/ Pháp thân quang minh ai thấy thì đắc pháp nhãn tịnh.

10/ Thân vô ngại như hư không cho chúng sanh tùy ư mãn nguyện.

Mười thân này là cái dụng viên mãn của Ba thân Phật, Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.

Ở đây nói là mười thân cùng lúc đầy đủ, nhưng cũng chỉ là đầy đủ ở trong thai. Vào Sơ địa mới thực sự được sanh ra như đứa trẻ, rồi lớn lên, trưởng thành, thành người lớn (Phật) thì mới làm những việc lớn lao được.

Cấp thứ tám của Thập Trụ là Đồng chân trụ, cấp thứ tám của Thập Địa còn được gọi là Đồng chân địa. Cấp thứ mười của Thập Trụ là Quán đảnh trụ, cấp thứ mười của Thập Địa là Pháp vân địa cũng trải qua quán đảnh. Như vậy chúng ta thấy mười bậc ở dưới cũng tương tự như mười bậc ở trên cùng, có khác nhau là một bên thì tương tự vì chưa được vào tánh Giác  Pháp thân, và một bên thì thật sự vì đã có nền tảng là tánh Giác Pháp thân.

………………………………..

9. Hình thể đã thành, ra khỏi bào thai, chính mình là Phật tử, gọi là Pháp vương tử trụ.

………………………………….

Từ Phát tâm trụ cho đến Sanh quý trụ là nhập thánh thai, từ Phương tiện cụ túc trụ cho đến Đồng chân trụ là trưởng dưỡng thánh thai. Đến đây đã đầy đủ mới ra khỏi bào thai, được sanh ra làm Phật tử.

Địa thứ tám của Thập địa còn có tên là Sanh địa, cho thấy sự giống nhau giữa Thập trụ và Thập địa. Nhưng sự khác biệt là về chất: ở Thập Địa thì gọi là Pháp vương tử, còn ở Thập trụ thì gọi là Pháp vương trụ. Sự khác biệt ấy là một bên có nền tảng là Pháp thân, còn bên kia thì chưa có nền tảng ấy.

…………………………………….

10. Cốt cách đã thành người lớn, như khi quốc vương đem các việc nước giao phó cho thái tử lúc thái tử trưởng thành, bày ra lễ quán đảnh, gọi là Quán đảnh trụ.

…………………………………..

Quán đảnh để thái tử sẽ lên làm vua. Quán đảnh của Phật giáo để làm Phật tử (ở cấp Thập Trụ) và để chuẩn bị thành Phật, làm việc Phật (ở cấp Thập Địa).

Chúng ta thấy tổng quát bốn mươi cấp bậc là như vầy :

  • Thập Tín là nhờ tin mà tiếp xúc sơ bộ với Phật tánh vốn viên thông sáng khắp: ‘‘Giữ gìn cái giác sáng tỏ, có thể dùng diệu lực xoay từ quang của Phật lại nơi mình, hướng về Phật mà an trụ’’. Đây là tri kiến Phật, cái thấy biết của Phật, dù chỉ mới là lúc ban đầu.

Thập Trụ là an trụ vào cái thấy biết sơ bộ ấy để hình thành và nuôi lớn: ‘‘Dung mạo giống như Phật, tâm tướng cũng đồng’’. Nhưng hàng Thập trụ chưa thấy rõ Phật tánh. Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Bậc Thập trụ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng thấy chẳng rõ ràng như trong đêm tối thấy vật chẳng rõ” (Phẩm Phạm hạnh). “Bồ tát Thập trụ còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!” (Phẩm Sư tử hống Bồ tát).

  • Thập Hạnh là hành động giống như Phật, nhờ hạnh này mà cái thấy biết Phật trở thành rõ ràng cụ thể.
  • Thập Hồi hướng là xoay Trí Bi hồi hướng về chúng sanh để Trí Bi phổ khắp pháp giới.

Đây là một trình tự hợp lý nói lên sự trưởng thành của tâm thức hành giả. Nhưng trình tự ấy luôn luôn xảy ra trên nền tảng Như Lai tạng diệu chân như tánh, thành thử bất cứ cấp bậc nào cũng hoàn toàn thông suốt với Như Lai tạng diệu chân như tánh. Bốn mươi địa vị đều nằm trên đất Phật, Phật địa, còn sự chứng ngộ nhanh hay chậm thì tùy nơi hành giả.

…………………………………..

III. THẬP HẠNH.

1. A Nan, người thiện nam đó đã thành Phật tử rồi, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai và tùy thuận mười phương, gọi là Hoan hỷ hạnh.

…………………………………..

Địa đầu tiên trong Thập Địa là Hoan hỷ địa, cấp bậc đầu tiên trong Thập Hạnh là Hoan hỷ hạnh.

Khi đã thành Phật tử, nghĩa là đã thấy biết và an trụ được nơi cái chân thật là Phật tánh, dù chưa trực tiếp, bèn hoan hỷ vì có đầy đủ diệu đức của Phật. Từ Phật tánh này lưu xuất các hạnh, mà hạnh đầu tiên là tùy thuận mười phương. Một trong những diệu đức của Phật tánh là tánh Không vô tự tánh, vì vô tự tánh nên có thể tùy thuận mười phương thế giới chúng sanh.

…………………………………….

2. Khéo hay lợi ích cho tất cả chúng sanh, gọi là Nhiêu ích hạnh.

……………………………………

Thành Phật tử là trí sáng, bi trùm, nên có thể làm lợi ích cho chúng sanh. Con đường Bồ tát cho đến thành Phật là khai mở, tỏa rộng Trí và Bi để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

……………………………………

3. Tự giác, giác tha, được không chống trái, gọi là Vô sân hận hạnh.

…………………………………..

Tự giác thì không thấy có mình. Giác tha thì không thấy có người. Đây gọi là ‘‘ngược dòng toàn nhất’’. Không có mình không có người thì được không chống trái. Không chống trái thì không có sân hận. Ở trong tánh, nghĩa là trong Trí Bi, thì không có ngã và pháp, bèn không có chống trái. Hạnh giác tha mà không có sân hận khiến hành giả tự mình tiêu trừ chướng ngại ngã chấp và pháp chấp, do đó gắn liền giác tha với tự giác.

………………………………..

4. Theo loài mà xuất sanh, tột mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương đều thông suốt, gọi là Vô tận hạnh.

………………………………..

Xuất sanh là hoặc sanh trong loài đó, hoặc xuất hiện trong loài đó. Trụ được trong tánh thì có được hạnh như tánh. Tánh thì tột mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương đều thông suốt nên hạnh y vào tánh thì cũng như thế. Tánh thì vô tận nên hạnh là vô tận.

………………………………….

5. Tất cả hợp về đồng, thảy thảy pháp môn được không sai lầm, gọi là Ly si loạn hạnh.

…………………………………

Tất cả tướng hợp thành một tướng, một tướng ấy là ‘‘vậy các pháp là Không tướng, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm’’. Nhờ biết cái Không tướng là nội dung của thảy thảy pháp môn mà được không sai lầm nơi các pháp môn.

Hãy mở mắt ra để thấy cái tất cả hợp về đồng Không tướng ấy, đó cũng là Ly si loạn hạnh.

…………………………………

6. Ở ngay trong cái đồng mà hiện ra cái khác. Nơi mỗi mỗi tướng khác đều mỗi mỗi thấy là đồng, gọi là Thiện hiện hạnh.

…………………………………

Ở trong tánh thì đồng, nhưng khi làm việc thì hiện ra các cái khác, có ta có người, có sự vật này khác với sự vật khác…. Nhưng tuy biểu hiện ra các tướng khác vẫn thấy chúng cùng đồng một tánh. Thấy chúng là đồng tức là đang ở trong tánh. Làm việc với các tướng khác nhau mà vẫn thấy là đồng, đây là tánh tướng không hai, lý sự không hai. Tự tại trong cái không hai này, gọi là khéo hiện (thiện hiện).

…………………………………

7. Như vậy cho đến mười phương hư không đầy khắp vi trần, trong mỗi mỗi vi trần hiện mười phương thế giới. Hiện vi trần, hiện thế giới không ngăn ngại nhau, gọi là Vô trước hạnh.

…………………………………

Trong mỗi vi trần hiện mười phương thế giới, trong cái nhỏ nhất có cái lớn nhất. Đây là cực độ của người chứng tánh Không, như huyễn. Nếu Thiện hiện hạnh ở trên là cảnh giới lý sự vô ngại, thì Vô trước hạnh ở đây là cảnh giới sự sự vô ngại.

Vô trước ở đây là tánh Không rốt ráo, như huyễn toàn triệt, viên thông toàn khắp.

………………………………….

8. Mỗi mỗi trước mắt đều là Đệ nhất ba la mật đa, gọi là Tôn trọng hạnh.

………………………………….

Mỗi mỗi vi trần, mỗi mỗi thế giới trước mắt (hiện tiền) đều là giải thoát đệ nhất, là tánh viên thông, là trí huệ. Kinh Kim Cương nói, ‘‘tất cả pháp đều là Phật pháp’’. Kinh Viên Giác nói, ‘‘tất cả đều là Giác’’.

Tất cả xưa nay vốn là vàng và mỗi thứ bằng vàng đó viên thông, vô ngại với nhau, thấy được sự quý báu đệ nhất này, là hạnh tôn trọng.

…………………………………….

9. Viên dung như thế, có thể thành tựu quy tắc của mười phương chư Phật, gọi là Thiện pháp hạnh.

……………………………………..

Viên dung như thế là ở trong tánh mà hành hạnh, vì chỉ có tánh mới viên dung. Quy tắc của mười phương chư Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tự giác cũng là Phật tánh, Giác tha cũng là Phật tánh, giác hạnh cũng là Phật tánh, như vậy mới có thể có ngày viên mãn, đó là thiện pháp.

…………………………………..

10. Mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi, thanh tịnh vô lậu, vì đều là tánh bổn nhiên, gọi là Chân thật hạnh.

……………………………………..

Mỗi mỗi là Niết bàn, mỗi mỗi là Phật, mỗi mỗi là nhất chân vô vi thanh tịnh, vì mỗi mỗi xưa nay đều là Phật tánh bổn nhiên.

Chỉ cần một hạnh trong mười hạnh mà đi cho đến tận cùng thì thành Phật. Vì một hạnh bao trùm tất cả các hạnh, vì một hạnh khai triển tận cùng thì đó chính là tánh bổn nhiên. Hạnh nào cũng được thực hành trên tánh bổn nhiên nên một hạnh bao gồm tất cả các hạnh khác.

Người nào biết làm một hạnh tức là làm tất cả các hạnh người ấy sẽ nhanh chóng đắc tánh bổn nhiên.

………………………………….

IV. THẬP HỒI HƯỚNG.

1. A Nan, người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, Phật sự đã thành tựu đều tinh chân thuần khiết, xa lìa các lỗi lầm. Chính khi hóa độ chúng sanh mà diệt dứt các tướng năng độ, sở độ. Xoay tâm vô vi hướng đường Niết bàn, gọi là Cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa chúng sanh tướng Hồi hướng.

……………………………………

Hồi hướng có hai, hồi hướng về chúng sanh và hồi hướng về tánh bổn nhiên. Nhưng tánh chúng sanh là tánh bổn nhiên, nên hồi hướng về chúng sanh tức là hồi hướng về tánh bổn nhiên, và hồi hướng về tánh bổn nhiên tức là hồi hướng về chúng sanh.

Cứu giúp chúng sanh nhưng vẫn ở trong tánh Không không có ta, người, tức là hồi hướng về Niết bàn tánh Không. Như vậy càng cứu giúp chúng sanh nhưng lìa tướng chúng sanh thì càng hướng về con đường tánh Không. Đây là tự giác, giác tha đồng nhất để càng thâm nhập tánh Không, vì thật tướng của tự giác giác tha là tánh Không. Trí huệ tánh Không và đại bi hành động cứu giúp dần dần hợp nhất.

…………………………………..

2. Hoại diệt cái có thể hoại, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất hoại hồi hướng.

…………………………………

Cái có thể hoại là cái hư giả, không thật, đó là các tướng. Hoại diệt các tướng là đưa chúng trở về thực tướng Không tướng của chúng. Các sự có thể lìa là các thứ hư giả, cho đến cái sự lìa cũng được xa lìa.

Cho đến không có gì để có thể hoại, không có gì để có thể lìa, đây là cái vốn bất hoại vì xưa nay chưa từng có tướng, là cái vốn xa lìa vì xưa nay chưa từng ô nhiễm.

………………………………..

3. Bản giác lặng trong như nhiên, giác bằng với giác của Phật, gọi là Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.

…………………………………

Bản giác vốn lặng trong như nhiên. Khi không có gì để có thể hoại, để có thể lìa thì đây là bản giác hay tánh Không bằng với cái giác của Phật.

Tâm bản giác này luôn luôn hiện diện nơi mình, thậm chí khi không hoại diệt, khi không lìa thì nó vẫn có đó, bình đẳng với tâm vốn giác của Phật. Khi có ý tưởng, có tướng chẳng lẽ không có tâm bản giác? Tấm gương khi có bóng chẳng lẽ đó chẳng phải là tấm gương? Bầu trời khi có mây chẳng lẽ chẳng phải là bầu trời?

…………………………………..

4. Tinh chân phát sáng, địa như Phật địa, gọi là Chí nhất thiết xứ hồi hướng.

…………………………………

Tinh chân là thủy giác (còn tánh chân là bản giác), dùng chữ của Đại toàn thiện là Tịnh quang con. Thủy giác phát sáng cho nên tương ưng được, hồi hướng được về bản giác hay tịnh quang mẹ. Ở đây, địa giống như Phật địa, mà Phật địa thì khắp tất cả chỗ (chí nhất thiết xứ) cho nên tinh chân phát sáng khắp tất cả chỗ, là một với bản giác.

……………………………….

5. Thế giới, Như Lai hỗ tương dung nhập, được không chướng ngại, gọi là Vô tận công đức tạng hồi hướng.

………………………………..

Với Như Lai thì thế giới là Báo thân và Hóa thân, nên hỗ tương dung nhập với Pháp thân tức Như Lai. Không chướng ngại giữa thế giới và Như Lai, nghĩa là thế giới tức là Như Lai, Như Lai tức là thế giới. Lúc ấy bèn thọ dụng Vô tận công đức tạng, ‘‘mỗi mỗi đều là Nhất Chân vô vi, thanh tịnh vô lậu, vì đều là tánh bổn nhiên’’.

………………………………….

6. Ở nơi đồng với Phật địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân thanh tịnh, y những nhân ấy mà phát huy, giữ lấy đạo Niết bàn, gọi là Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.

………………………………….

Ở nơi đồng với Phật địa, thì trong ấy cái gì sanh ra đều là nhân thanh tịnh và nhân ấy là quả Niết bàn. Cái gì cũng là thiện căn bình đẳng một vị Niết bàn, nên y những nhân ấy mà phát huy rồi hồi hướng, bèn có ngay quả Niết bàn, gọi là giữ lấy đạo Niết bàn.

…………………………………..

7. Chân căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình. Tánh thành tựu viên mãn không bỏ sót một chúng sanh, gọi là Tùy thuận đẳng giác nhất thiết chúng sanh hồi hướng.

…………………………………..

Thiện căn bình đẳng là chân căn. Chân căn này là bản tánh của mình và của tất cả chúng sanh. Thế nên khi chân căn thành tựu thì mười phương chúng sanh đều là bản tánh của mình, không bỏ sót chúng sanh nào. Bản tánh ấy vốn viên thành, nên tất cả đều là Giác.

Như tấm gương sáng, bản tánh của mình và của tất cả chúng sanh đồng là một tấm gương, gương bình đẳng nhiếp tất cả các bóng, không bỏ sót một chúng sanh nào. Ánh sáng của gương là trí, sự rộng khắp của gương để in bóng tất cả là bi. Trí bi hợp nhất là tấm gương. Chân căn tấm gương này tùy thuận bình đẳng quán chiếu tất cả chúng sanh, trong đó tất cả chúng sanh bổn lai thành Phật.

…………………………………..

8. Tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Cả tức và lìa đều không dính mắc, gọi là Chân như tướng hồi hướng.

…………………………………..

Chân căn tấm gương ấy là Chân Như, in bóng tất cả pháp vào đó, tất cả pháp đều là Chân Như. Tấm gương là tất cả bóng, nhưng tất cả tướng bóng ấy không thể in chết cứng vào tấm gương. Với tấm gương, tất cả tướng bóng đều lìa.

Chân Như là ‘‘tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng’’. Tức tất cả pháp, đây là Diệu Hữu. Lìa tất cả tướng, đây là Chân Không. Đời sống đích thực là Chân Không Diệu Hữu. Đây là điều phải được trải nghiệm, chứng ngộ thì cuộc đời mới đầy dẫy Thường Lạc Ngã Tịnh được.

‘‘Tức tất cả pháp, lìa tất cả tướng’’, chỉ một câu này mà tham thiền cho đến rốt ráo thì địa nào cũng đạt đến.

……………………………………….

9. Thật đắc tất cả đều Như, mười phương vô ngại, gọi là Vô phược giải thoát hồi hướng.

………………………………….

Tất cả bóng trong gương đều là gương, tất cả đều là Như, mười phương đều là Như nên tất cả mười phương vô ngại, đó gọi là không trói buộc, giải thoát. Giải thoát không phải là lìa khỏi, đi đâu cả. Giải thoát là thấy tất cả đều Như.

……………………………………..

10. Đức của tánh viên thành, hạn lượng của pháp giới diệt, gọi là Pháp giới vô lượng hồi hướng.

………………………………….

Tánh thì ở khắp cả, vô lượng. Vì pháp giới tánh thì toàn khắp vô lượng nên pháp giới cũng toàn khắp, vô lượng. Nhưng chưa chứng được cái đức của tánh là vô lượng nên thấy pháp giới có hạn lượng. Khi chứng được cái đức của tánh là vô lượng thì pháp giới trở thành vô lượng.

…………………………………..

V. TỨ GIA HẠNH.

A Nan, người thiện nam ấy qua hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, cần thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên.

1.Tức là lấy cái giác của Phật dùng làm tâm mình, như ra nhưng chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt lại cây, gọi là Noãn địa.

……………………………………..

Sơ tâm Càn huệ địa đầu tiên cũng là cái giác của Phật, nhưng mới chỉ là bóng dáng. Trải qua Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng thì cũng vẫn là cái tâm giác của Phật nhưng càng lúc càng hiện rõ ràng hơn, nhờ sự khai triển sâu rộng hơn của hành giả. Ở một địa vị trong bốn mươi địa vị này mà khai triển cho tột cùng thì đó là tâm giác của Phật không khác. Có địa nào có thể ở ngoài Phật địa đâu?

Cho nên chỉ cần lấy một Trụ, một Hạnh, một Hồi hướng mình thích hợp nhất rồi Văn, Tư, Tu bằng Chỉ, Quán, Thiền như một đề mục duy nhất thì có ngày xuyên thủng mà vào Pháp thân.

Với quá trình công thức và chính thức này, dầu qua hết bốn mươi tâm thanh tịnh, nhưng tâm ấy chưa là một với tâm Phật, cũng tức là Pháp thân của chư Phật. Phải vào Thập Địa mới thật sự là thánh, thật sự từ bỏ sanh tử, vì từ đây mới thật sự đứng trên đất Phật, cùng chung một tâm Phật, cùng chung một Pháp thân với tất cả chư Phật.

Muốn vượt qua cái ngưỡng phân chia sanh tử với Niết bàn, phân chia thức và trí, phân chia bậc Tam hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) với bậc thánh Bồ tát Pháp thân thì phải nỗ lực, gia tăng tốc độ (gia hạnh). Thần chú của Bát Nhã Tâm Kinh nói lên ý nghĩa vượt qua này.

Noãn địa, địa của sức nóng, là cái đầu tiên của bốn Gia hạnh vị. Lấy cái giác của Phật làm tâm mình, nghĩa là mượn cái giác của Phật chứ tự tâm mình chưa phải là cái giác của Phật. Thấy như ra thoát nhưng chưa ra thoát, đầu thì lọt vào hư không bao la nhưng thân còn kẹt trong năm ấm. Cho nên nỗ lực tinh tấn, tạo ra sức nóng, như dùi cây cho ra lửa để đốt cháy tiêu cả hai cây. Cháy tiêu cả hai cây, chủ thể và đối tượng, ngã và pháp, tu và đắc, thì mới là tâm Phật.

……………………………………

2. Lại lấy tâm mình thành chỗ bước của Phật, như nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư không mà ở dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đỉnh địa.

………………………………………..

Bốn Gia hạnh vị này là các bước chuẩn bị để đi vào Pháp thân hay tánh bổn nhiên, Kinh diễn tả cụ thể những bước chuẩn bị nhảy này.

Đảnh địa là lấy cái tâm gần giống tâm Phật của bốn mươi cấp bậc ở trước mà bước thêm. Lên đến đỉnh của cuộc đời thế gian, như trên đỉnh núi, thân đã vào tánh Không nhưng chân vẫn còn chạm đất. Chân như còn nương y vào đất, còn có chỗ trụ, chưa dám nhảy vào tánh Không vì phiền não chướng và sở tri chướng còn nhiều, chấp ngã chấp pháp còn nặng. Muốn phá thấu vào tánh Không, phải loại trừ hai thứ nghiệp chướng này thêm nữa.

……………………………………….

3. Tâm và Phật cả hai đồng, khéo được Trung đạo, như người nhẫn chịu, chẳng phải ôm vào chẳng phải bỏ ra, gọi là Nhẫn địa.

……………………………………….

Con đường Phật giáo ít nói chứng đắc mà nói đến nhẫn: nhẫn chịu sự thật là vô ngã vô pháp, cho đến Vô sanh pháp nhẫn.

Đến đây phải nhẫn chịu tánh Không thì mới lọt vào được. Tâm và Phật là tánh Không-Minh, nhưng chưa hợp với tánh được vì chưa thấu thoát qua chấp ngã chấp pháp. Cho nên phải nhẫn chịu, ôm vào thì chẳng dám ôm lâu mà bỏ ra thì mất công phu từ trước đến giờ.

……………………………………..

4. Số lượng tiêu diệt, mê, giác và trung đạo cả hai đều không có chỗ để nêu, gọi là Thế đệ nhất địa.

…………………………………….

Số lượng là các tướng khác nhau, hữu hạn, theo trật tự thứ lớp. Số lượng tiêu diệt thì cái vô hạn bắt đầu hiện ra.

Các tướng tiêu thì tánh hiện, không chạy theo các bóng trong gương thì gương hiện. Thậm chí các ý niệm mê, giác và trung đạo cũng không còn trong tâm. Ở nơi tâm không còn chỗ trụ này bèn nhảy vào đất thật là tánh Không Minh.

Thế đệ nhất địa là chỗ cao nhất của thế gian ba cõi, nhưng dầu cao nhất như các vua cõi trời thì vẫn ở trong sanh tử.

………………………………………..

VI. THẬP ĐỊA.

1. A Nan, người thiện nam ấy khéo được thông đạt với Đại Bồ đề. Giác thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật, gọi là Hoan hỷ địa.

……………………………………….

Vào Hoan hỷ địa là thông đạt với Đại Bồ đề tức Pháp thân, hay còn gọi là Căn bản trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí…. Duy thức tông gọi là Kiến đạo vị, địa vị thấy Đạo. Thiền tông gọi là thấy Tánh. Đại Ấn và Đại Toàn Thiện cũng chia các cấp bậc tu chứng theo Thập địa (xem chương Bốn cấp bậc của Yoga_Tánh Giác lộ toàn thân của Karma Chagmé, TTT, 2003 và Bốn thị kiến và Mười Địa_Phật Tâm của Longchenpa, TTT, 2000).

Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói về Hoan Hỷ địa như sau :

‘‘Bồ tát như vậy liền vượt khỏi phàm phu mà vào vị Bồ tát, sanh vào nhà Như Lai…, gọi là trụ bậc Bồ tát Hoan hỷ địa, vì đã tương ưng với Chân Như bất động….

Vì đã chuyển rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì thân cận tất cả Phật mà hoan hỷ, vì xa lìa phàm phu mà hoan hỷ, vì dứt hẳn tất cả đường ác mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sanh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì đi vào tất cả tánh bình đẳng của tất cả Bồ tát mà hoan hỷ…’’

Tóm lại, Địa này ‘‘giác thông với Như Lai’’ nghĩa là đã trực tiếp thấy biết Chân Như, chứng được từng phần Pháp thân của chư Phật, do đó thấy biết cảnh giới Phật, thân cận với chư Phật.

Thập địa là nền tảng của Phật giáo, vì là nền tảng cho nên đều dùng chữ Địa. Có thấy biết trực tiếp Chân Như thì mới thực sự tin (Thập Tín), mới thực sự an trụ (Thập Trụ), mới thực sự thực hành hạnh tương ưng với Chân Như, ‘‘xứng tánh làm Phật sự’’ (Thập Hạnh), mới biết đâu là chỗ để hướng đến (Thập Hồi Hướng). Đây mới chính là Càn huệ địa đích thực.

Từ Sơ địa trở lên Bồ tát luôn luôn lấy đại bi làm đầu mà tiến tới. Mỗi địa chứng được một phần Pháp thân, thì cũng đồng thời được một phần Báo thân và Hóa thân.

……………………………………..

2. Tánh khác nhập vào đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là Ly cấu địa.

……………………………………

Tánh khác là những tướng khác biệt do vọng thấy bây giờ nhập vào tánh đồng. Nhưng tánh đồng này là tánh Không-Minh nên tánh đồng cũng diệt vì trong tánh Không-Minh, đồng và khác chỉ là hý luận. Ly cấu địa là lìa cái dơ của tánh khác và cả cái dơ vi tế của tánh đồng.

…………………………………….

3. Thanh tịnh cùng tột, ánh sáng phát sanh, gọi là Phát quang địa.

………………………………………

Khi các tướng phân biệt diệt thì ánh sáng bổn nhiên của tánh lộ bày, gọi là Phát quang địa. Ánh sáng này trùm khắp trời đất.

………………………………………….

4. Ánh sáng cùng tột, giác tròn đầy, gọi là Diệm huệ địa.

…………………………………………..

Đến đây ánh sáng phát sanh cùng tột, như ngọn lửa mạnh tiêu trừ các nghiệp che chướng, do đó giác tròn đầy. Diệm huệ là trí huệ như ngọn lửa sáng.

…………………………………………

5. Tất cả đồng và khác không thể đến được, gọi là Nan thắng địa.

……………………………………….

Khác là thế giới sanh tử, đồng là một vị Niết bàn. Khác là các tướng, đồng là tánh. Đến đây sự phân biệt giữa sanh tử và Niết bàn, giữa tướng và tánh không còn. Đại bi bao trùm sanh tử và Trí huệ thấu suốt Niết bàn tánh Không hợp nhất. Sự việc này rất khó đạt, vượt hàng Thanh Văn, nên gọi là Nan thắng.

……………………………………….

6. Tánh chân như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là Hiện tiền địa.

…………………………………………

Khi thanh tịnh đã tột, ánh sáng đã tột, sanh tử Niết bàn thành một vị, khi ấy tánh chân như Minh Không bày lộ rõ ràng trước mắt.

Mắt thấy cái gì thì cái đó là Chân Như, tai nghe tiếng gì thì tiếng đó là Chân Như, ý nghĩ thế nào thì ý nghĩ ấy là Chân Như.

………………………………………..

7. Tận cùng bờ mé Chân Như, gọi là Viễn hành địa.

Tận cùng bờ mé Chân Như, lúc này sanh tử lùi lại thật xa xôi, như còn như mất, gọi là đi xa (viễn hành).

Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘‘Bồ tát từ Sơ địa đến Đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần, từ Đệ bát địa đến Đệ thập địa vô công dụng hạnh đều được thành tựu.

Ví như có hai thế giới, một thì tạp nhiễm, một thì thuần tịnh. Chặng giữa hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bậc Bồ tát có đại nguyện lực phương tiện trí huệ mới có thể qua được.

Từ Sơ địa đến Đệ thất địa, công hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng Vô thượng Giác ngộ, vì phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa được gọi là hạnh siêu phiền não…. Từ Sơ địa đến Đệ thất địa, vì ngự chánh đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa gọi là hạnh siêu phiền não. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng, từ Đệ thất địa vào Đệ bát địa, ngự xe Bồ tát, thanh tịnh du hành thế gian, biết phiền não lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là hạnh siêu phiền não, vì được siêu quá khỏi tất cả’’.

………………………………………

8. Một tâm Chân Như, gọi là Bất động địa.

………………………………………..

Chỉ còn một tâm Chân Như, hết hẳn sanh tử. Đến đây mới gọi là hạnh vô công dụng, vô học, không tu nữa. Đến đây là trọn vẹn đạt đến Không, Vô tướng, Vô nguyện chung cho cả Bồ tát và Thanh Văn.

‘‘Bồ tát này vào tất cả pháp bổn lai vô sanh, vô khởi, vô tướng, vô tánh… là chỗ nhập của trí như như, lìa tất cả tưởng phân biệt tâm, ý, thức, không chỗ chấp lấy dường như hư không, vào tất cả pháp như tánh hư không, đây gọi là đắc Vô sanh pháp nhẫn’’.

Kinh Hoa Nghiêm gọi địa này là Bất động địa, Bất thối chuyển địa, Nan đắc địa, Đồng chân địa, Sanh địa, Thành địa, Cứu cánh địa, Biến hóa địa, Lực trì địa, Vô công dụng địa.

Lấy một thí dụ cụ thể, là các niệm. Ở Sơ địa, vì mới tương ưng với Chân Như tánh Không, nên khi niệm khởi bèn đưa nó trở về Chân Như tánh Không. Đây gọi là có công dụng. Còn ở Địa thứ Tám, thì khi niệm khởi, dĩ nhiên đây là niệm tốt, không còn niệm xấu, niệm ấy tự động tan vào tánh Không. Sự tự động tan vào tánh Không ấy hoàn toàn đến nổi dù có niệm khởi nhưng vẫn là Vô niệm. Đây gọi là vô công dụng đạo, hoàn toàn đắc Không, Vô tướng, Vô niệm, Vô tác.

Nói theo ba a tăng tỳ kiếp, thì đến đây là xong a tăng kỳ kiếp thứ hai. Đệ bát địa Bồ tát tương đương với vị A La Hán nhưng thay vì nhập Niết bàn, thì với vị Bồ tát, chư Phật hiện ra khuyên phải nhớ lại bổn nguyện không bỏ chúng sanh mà tiếp tục cho đến thành Phật.

…………………………………….

9. Phát cái dụng Chân Như, gọi là Thiện huệ địa.

A Nan, các Bồ tát ấy từ đây về trước công hạnh tu tập đã xong, công đức được viên mãn, cũng gọi địa này là Tu tập vị.

……………………………………..

Từ Sơ Hoan hỷ địa, gọi là Kiến đạo vị, sau đó là Tu tập vị, đến Địa thứ Chín này là hoàn tất Tu tập vị, hoàn toàn không tu nữa. Chia theo Duy thức tông và các tông khác, thì từ đây cho đến thành Phật gọi là Cứu cánh vị.

Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘‘Bồ tát này có Bốn vô ngại trí… được trí vô ngại thiện xảo như vậy, được Phật pháp tạng làm đại Pháp sư, được nghĩa đà la ni, pháp đà la ni, trí huệ đà la ni, quang chiếu đà là ni, thiện huệ đà la ni…’’. Còn nhiều diệu dụng khác của Chân Như xin đọc trong Kinh Hoa Nghiêm.

…………………………………………

10. Bóng Từ mây Diệu trùm biển Niết bàn, gọi là Pháp vân địa.

…………………………………………

Bồ tát này được chư Phật quán đảnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đại Bồ tát Thọ Chức cũng như vậy: vì trí thủy của chư Phật rưới vào đầu nên gọi là thọ chức, vì đây đầy đủ trí lực Như Lai nên dự vào hàng chư Phật…”.

Bóng từ là từ bi, mây diệu là trí huệ, đến đây viên mãn, trùm khắp pháp giới. Từ Tư lương vị là bắt đầu hai sự tích tập công đức và tích tập trí huệ, hai sự tích tập ấy đến đây là viên mãn.

……………………………………..

VII. ĐẲNG GIÁC VÀ DIỆU GIÁC.

Như Lai ngược dòng trở lại, còn vị Bồ tát như vậy thuận dòng mà đến. Ranh giới của Giác giao tiếp nhập vào nhau, gọi là Đẳng giác.

A Nan, từ tâm Càn huệ đến Đẳng giác rồi, cái giác này mới được Sơ Càn huệ địa trong tâm Kim cương.

………………………………….

Đẳng giác là cái giác bình đẳng với chư Phật. Phật vì tâm đại bi mà ngược dòng trở xuống. Bồ tát này thuận dòng đi lên, cả hai cái giác giao tiếp nhập vào nhau.

Đẳng giác tuy là cái giác không còn ranh giới với Phật nhưng mới được Sơ Càn huệ địa trong tâm Kim cương. Tâm Kim cương là tâm Phật.

Bước đầu tiên của con đường vẫn là một tâm Kim cương bất hoại, bất sanh bất diệt vốn tự sẳn đủ ấy. Nhưng có thể nói bốn mươi vị đầu thì chỉ mới nắm bắt được bóng dáng tỏa sáng của viên kim cương. Phải vào Thập Địa mới thật nắm bắt, thấy biết được viên kim cương. Và phải tới Đẳng giác thì mới thật sự chứng ngộ được viên kim cương trong bản chất cốt lõi của nó.

…………………………………..

Như vậy, lớp lớp tu đơn, tu kép mười hai địa vị mới cùng tột Diệu giác, thành Vô thượng đạo.

……………………………………

Tu đơn là tu một địa vị. Nhưng trong một địa vị ấy có và thông với tất cả các địa vị, đó là tu kép. Một trụ thì có cả chín trụ kia, một địa thì có cả chín địa kia. Chẳng hạn, Sơ địa tu Bố thí ba la mật, thì Bố thí có cả chín Ba la mật kia hỗ trợ. Tu kép là tu đồng bộ những cái khác cùng một lúc.

Tu đơn, chẳng hạn, là tu riêng Chỉ. Tu kép là vừa Chỉ vừa Quán. Tu kép là vừa tu Trí, vừa tu Bi, vừa tu Hạnh…. Tóm lại, tu một pháp, nhưng trong pháp ấy có tất cả các pháp khác. Đây là Bồ tát hạnh để thành Phật.

Tu đơn, tu kép mười hai địa vị, từ Sơ địa cho đến Diệu giác được trọn vẹn thì thành Vô thượng đạo, thành Phật.

……………………………………..

Các địa này đều do trí Kim cương quan sát như huyễn mười thứ thí dụ sâu xa, trong Xa ma tha dùng các pháp Tỳ bà xá na của Như Lai mà thanh tịnh tu chứng, lần lượt thâm nhập.

A Nan, như thế đều dùng ba tiệm thứ tăng tiến, khéo thành tựu năm mươi lăm vị trong con đường chân thật của giác ngộ.

Hành quán như vậy, gọi là chánh quán, nếu quán khác đi, gọi là tà quán.

………………………………….

Viên kim cương tâm có ba đức tính:

– Bất động, bất hoại, hay là Tịch, hành giả phải dùng Chỉ (Xa ma tha) hay Định để thâm nhập.

– Sáng chiếu khắp cả, biến tất cả thành như huyễn, hay là Chiếu, hành giả phải dùng Quán (Tỳ bà xá na) để tương ưng thâm nhập. Quán này là quán như huyễn, gồm mười thứ thí dụ :

1) Như huyễn

2) Như sóng nắng

3) Như trăng trong nước

4) Như hoa đốm giữa hư không

5) Như tiếng vang từ hang

6) Như thành Càn thát bà

7) Như mộng

8) Như bóng

9) Như hình tượng

10) Như biến hóa

Càng thấy như huyễn bao nhiêu thì càng đi sâu vào viên Kim cương bấy nhiêu và càng đi sâu vào viên kim cương bao nhiêu thì càng thấy như huyễn bấy nhiêu.

– Trong suốt, thanh tịnh, không ô nhiễm nhưng có đủ màu sắc diệu dụng. Sự thực hành công đức khiến hành giả tương ưng và chứng ngộ được công đức của tâm kim cương vốn là trong suốt, thanh tịnh, vô nhiễm khắp cả, đồng thời có đủ tất cả các chiếu hiện. Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói: “Hiện nay ba cõi này, đều là của ta cả” (Phẩm Phương tiện, thứ 3).

Con đường Phật giáo là “Các ác chớ làm, các thiện vâng làm, tự tịnh kỳ ý, lời chư Phật dạy”. Ba tiệm thứ tăng tiến là sự tự tịnh hóa ban đầu, càng đi sâu thì ba tiệm thứ càng vi tế vì càng có thêm nhiều phương tiện để cuối cùng giải trừ ô nhiễm chấp ngã và chấp pháp, đạt đến tâm kim cương vốn chưa từng ô nhiễm. Các địa vị được chia thành năm mươi lăm vị là chia theo sự thanh tịnh, sự tịnh hóa ít hay nhiều. Có điều người tu cần biết là sự tịnh hóa không phải ở ngoài tâm kim cương mà tịnh hóa trên chính tâm kim cương. Như chùi bụi bẩn trên mặt gương, chính nơi chỗ chùi là mặt gương.

Xem mục lục