Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

Quyển Thứ Ba

 Quyển thứ ba sẽ giải thích ý nghĩa các phẩm từ phẩm mười một đến phẩm hăm chín.

Quyển hai nói về sự phát khởi đại nguyện của đức Di Ðà khi ngài đang tu nhân, quyển này sẽ tường thuật về sự thành tựu đại nguyện đạt Quả Giác cứu cánh viên mãn của Phật A Di Ðà. Kinh thuật tỉ mỉ về y báo, chánh báo cõi Cực Lạc, chủ lẫn bạn đều thanh tịnh trang nghiêm, vi diệu, đẹp đẽ lạ lùng, viên minh cụ đức, vượt trỗi mười phương cõi nước, siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn. Riêng phẩm thứ hăm bốn nêu rõ cương lãnh của bản kinh này: ‘Phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật’ cũng như hạnh thù thắng để được vãng sanh của cả ba bậc. Phẩm hăm lăm lại nói rõ chánh nhân vãng sanh. Vì vậy, tôi kính xin độc giả hết sức lưu tâm những đoạn ấy hầu phát khởi lòng tin trong sạch.

Quyển hai nói đến việc phát nguyện, quyển này tường thuật nguyện thành tựu. Nên lưu ý là những điểm siêu thắng, độc diệu của bản kinh này toàn là do bổn nguyện tối thắng cực diệu của Phật cảm thành cả. Vì vậy, chánh kinh đôi ba lượt nhắc đến chữ ‘nguyện’ như cuối phẩm mười lăm có câu: ‘Ðấy đều là do sức oai thần, do sức bổn nguyện, do lời nguyện trọn vẹn, do lời nguyện rõ ràng, kiên cố, rốt ráo của Phật Vô Lượng Thọ vậy’; phẩm hăm bảy cũng nói: ‘Ðấy đều là do bổn nguyện của Phật Vô Lượng Thọ gia hộ, cũng như do ngài từng cúng dường Như Lai, gieo thiện căn liên tục không hề khuyết giảm, do ngài khéo tu tập, do ngài khéo nhiếp thủ, do ngài khéo thành tựu vậy’. Trong phẩm hăm chín ‘Nguyện Lực Hoằng Thâm’ cũng chép: ‘Cõi Phật Di Ðà trường cửu, rộng lớn, sáng ngời, tốt đẹp, khoái lạc, thù thắng độc nhất. Ðó là do lời nguyện khi ngài còn tu Bồ Tát đạo và do công đức tích lũy chiêu cảm thành’. Như vậy, quyển hai nói về nhân, quyển này bàn về quả. Cõi Phật vượt trỗi mười phương chỉ là do Phật nguyện sâu thẳm, bao la, ân đức vô cực vậy.

Cuối phẩm hăm chín còn ghi: ‘Phật Vô Lượng Thọ bố thí ân đức cả tám phương trên dưới một cách vô cùng vô cực, sâu rộng vô lượng chẳng thể nói nổi’. Quả thật, bọn chúng ta ngày nay thật đã nhờ Phật A Di Ðà ban ân thí đức nên mới được phát nguyện vãng sanh, cùng vào trong Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Ðà. Phẩm hăm ba ‘Thập Phương Phật Khen Ngợi’ còn chép: ‘Chí tâm hồi hướng nguyện sanh cõi kia, hễ nguyện thì được vãng sanh đắc bất thối chuyển’. Phẩm Vãng Sanh Chánh Nhân cũng ghi: ‘Ngày đêm thường niệm, nguyện mong vãng sanh cõi nước thanh tịnh của Phật A Di Ðà trong mười ngày mười đêm hay dẫu chỉ một ngày một đêm chẳng đoạn tuyệt thì lúc mạng chung đều được sanh về cõi kia’. Như vậy, tin sâu, nguyện thiết, trì danh hiệu Phật chính là chiếc bè báu duy nhất giúp chúng ta vượt ngay khỏi sanh tử: Lấy Quả Giác của Phật làm cái tâm tu nhân của chúng ta. Nhân và quả hệt như nhau nên tiến thẳng đến cứu cánh tự giác, giác tha. ‘Thí cho khắp tất cả cái lợi chơn thật’ chỉ là điều này mà thôi!

Trong kinh này, từ phẩm thứ mười một ‘Cõi Nước Nghiêm Tịnh’ cho đến phẩm băm hai ‘Thọ Lạc Vô Cực’ thuật tỉ mỉ các tướng trạng y báo, chánh báo, chủ bạn trang nghiêm thanh tịnh, sự sự vô ngại. Vô lượng vô biên các sự tướng vi diệu, đẹp đẽ, lạ lùng chẳng thể nghĩ bàn đều là do đại nguyện thù thắng của Phật A Di Ðà chiêu cảm thành, cũng như từ tâm tịnh minh của đấng Cực Lạc đạo sư hiện ra. Do sự lý vô ngại nên những tướng mầu nhiệm được nêu trong kinh đều là Thật Tế lý thể. Lại vì sự sự vô ngại nên một sợi lông, một mảy bụi trong cõi kia không vật gì là chẳng viên minh cụ đức. Sự sự vô ngại vốn là điểm độc đáo của kinh Hoa Nghiêm, thế mà kinh này cũng hiển thị lẽ sự sự vô ngại thì kinh này khác gì kinh Hoa Nghiêm?

Cực Lạc chẳng rời Hoa Tạng như Hoằng Pháp Ðại Sư (tổ Không Hải, sáng tổ Chơn Ngôn tông Nhật) dạy: ‘Hoa Tạng Thế Giới có nghĩa như sau: Hoa là Lý. Lý trọn khắp pháp giới chứa đựng (tạng) trong các pháp nên bảo là Hoa Tạng. Hoa Tạng thế giới bao gồm những sự vui sướng mầu nhiệm tối thượng nên gọi là Cực Lạc. Vì vậy, phải biết là Hoa Tạng và Cực Lạc tuy tên khác nhưng nơi chốn chẳng khác’.

Sách Bí Tạng Ký Sao, quyển sáu cũng nói: ‘Trong sách Tịnh Ðộ Luận (còn gọi là Vãng Sanh Luận, tức là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Ðề Xá Nguyện Sanh Kệ) của ngài Thiên Thân, Cực Lạc thế giới có tên là Hoa Tạng thế giới. Ðấy là một chứng cớ vậy. Cõi ấy lấy hoa sen làm thành quốc độ nên gọi là Hoa Tạng, hưởng sự vui mầu nhiệm tối thượng nên gọi là Cực Lạc. Ðấy chỉ là một chỗ mà gọi tên khác nhau thôi’.

Sách Vãng Sanh Luận cũng bảo ba thứ trang nghiêm trong cõi Cực Lạc đều gói gọn trong một pháp cú: ‘Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’. Ðàm Loan đại sư giải thích câu ấy như sau: ‘Ba câu ấy lần lượt giải thích lẫn nhau. Do nghĩa nào gọi là pháp? Do vì thanh tịnh. Do nghĩa nào gọi là thanh tịnh? Do chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Chơn thật trí huệ chính là Thật Tướng trí huệ. Do Thật Tướng là vô tướng nên chơn trí vô tri. Vô vi Pháp Thân là pháp tánh thân. Do pháp tánh tịch diệt nên Pháp Thân vô tướng. Do vô tướng nên không gì chẳng là tướng, vì thế tướng hảo trang nghiêm chính là Pháp Thân. Do vô tri nên không gì là chẳng biết. Vì thế, Nhất Thiết Chủng Trí chính là trí huệ chơn thật vậy’. Câu nói ‘tướng hảo trang nghiêm chính là Pháp Thân’ của Ðàm Loan đại sư quả là nét bút điểm nhãn khi vẽ rồng.

Sách Tông Kính Lục phê: ‘Một lời chí lý chuyển phàm thành thánh’. Thế nhân phần nhiều chê Tịnh tông là thiên chấp sự tướng cũng vì chẳng biết Cực Lạc thế giới thật bất khả tư nghì. Những sự tướng được kinh diễn tả lại chính là Pháp Thân như Thiện Ðạo đại sư đã dạy: ‘Chỉ phương lập tướng tức là ngay nơi sự chính là chơn’. Câu ‘Ngay nơi tướng là đạo, ngay nơi sự là chơn’ hay nói trong Mật tông cũng mang cùng một ý chỉ này.

Lại như khi ngài Văn Thù bảo Thiện Tài đồng tử hái thuốc, đồng tử cầm một nhánh cỏ thuốc bảo: ‘Con thấy khắp cả đại địa không thứ nào chẳng phải là thứ thuốc này’. Nếu hiểu được như thế thì Thiền, Mật, Tịnh Ðộ tuy ba mà một; vi trần, mảy lông, cõi nước đều hiển hiện cảnh giới sự lý vô ngại, sự sự vô ngại.

11. Quốc giới nghiêm tịnh

Chánh kinh: Phật bảo A Nan:

- Cõi Cực Lạc thế giới công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ, vĩnh viễn không có các tên gọi các khổ, các nạn, đường ác, ma làm não loạn; cũng không có bốn mùa, nóng, lạnh, mưa, tối tăm sai khác. Lại cũng chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò, đống, hầm, hố, gai góc, cát sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá hay núi đất, chỉ tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất; bằng phẳng, rộng rãi bao la chẳng thể hạn lượng, vi diệu, lạ lùng, đẹp đẽ, thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy các thế giới trong mười phương.

 

Giải: Ðoạn này miêu tả y báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Y báo trang nghiêm là do nguyện thứ nhất ‘cõi nước không có ác đạo’ và nguyện thứ ba mươi chín ‘trang nghiêm vô tận’ cảm thành.

‘Công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ’: Sách Vãng Sanh Luận bảo có ba thứ công đức trang nghiêm: một là cõi nước Phật, hai là A Di Ðà Phật, ba là các vị Bồ Tát (mỗi thứ này đều có đủ vô lượng công đức trang nghiêm). Do có đủ cả ba thứ trang nghiêm như thế nên kinh nói: ‘Công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ’.

Luận còn chép: ‘Cõi nước Phật ấy công đức trang nghiêm nên thành tựu sức chẳng thể nghĩ bàn vậy, giống như tánh của báu ma ni Như Ý [có thể dùng làm] pháp tương tự, tương đối vậy’. Ý nói: Mỗi thứ trong Cực Lạc thế giới đều tùy theo cơ nghi của mỗi người trong nước mà hiển hiện; chẳng hạn như nước công đức trong các suối ao có thể ‘vừa ý của mỗi chúng sanh’ khác nào báu Ma Ni (còn gọi là báu Như Ý) có thể tùy thuận ý thích của mỗi người mà hóa hiện các thứ.

Sách Luận Chú (tức Vãng Sanh Luận Chú của ngài Ðàm Loan) giảng câu ‘như tánh của báu Ma Ni Như Ý kia’ như sau:

Mượn tánh chất của báu Ma Ni Như Ý để hiển thị tánh chẳng thể nghĩ bàn của cõi An Lạc. Lúc chư Phật nhập Niết Bàn liền dùng sức phương tiện khiến thân nát thành xá lợi để tạo phước cho chúng sanh. Khi chúng sanh hết phước, các viên xá lợi ấy biến thành ma ni như ý bảo châu. Những châu này phần nhiều ở trong biển cả, đại long vương dùng để trang hoàng trên đầu. Nếu Chuyển Luân thánh vương ra đời thì do từ bi phương tiện, ông ta sẽ có được viên bảo châu ấy để gây lợi ích lớn lao cho cõi Diêm Phù Ðề.

Nếu cần y phục, thức ăn, đèn soi, nhạc cụ, các thứ vật dụng tùy lòng mong muốn thì vua trai giới thanh khiết, đặt châu trên đầu sào cao, phát nguyện rằng: ‘Nếu tôi đúng là Chuyển Luân thánh vương thì nguyện bảo châu này sẽ mưa xuống các vật như thế suốt cả một dặm, hoặc là mười dặm, hoặc là trăm dặm đúng như tâm nguyện của tôi’.

Ngay khi ấy, trong không trung lập tức mưa xuống các thứ vật ứng theo lòng mong, thỏa mãn nguyện vọng của hết thảy mọi người trong cả một thiên hạ. Ðấy là tánh lực của bảo châu ấy. Cõi nước An Lạc kia cũng giống như thế: dùng tánh an lạc để thành tựu các thứ’.

Sách Vãng Sanh Luận Chú lại giảng câu ‘tương tự, tương đối’ như sau: ‘Báu đó chỉ có thể thỏa các nguyện cơm, áo v.v…của chúng sanh, chẳng thể ban cho họ cái nguyện vô thượng đạo. Hơn nữa, báu ấy chỉ có thể thỏa nguyện một đời cho chúng sanh, chẳng thể thỏa nguyện chúng sanh trong vô lượng thân. Có vô lượng điều sai biệt đến thế nên bảo là tương tự’. Ý nói: Cõi nước Cực Lạc thành tựu sức chẳng thể nghĩ bàn vượt xa hết thảy, không có cách nào so sánh nổi; ở đây chỉ tạm mượn báu Ma Ni để làm thí dụ, chứ thật sự báu Ma Ni còn kém xa muôn vàn nên mới bảo là ‘tương tự’; chỉ là miễn cưỡng so sánh thôi nên mới bảo là ‘tương đối’. ‘Ðối’ có nghĩa là đem so sánh vậy.

Trong sách Luận Chú, Ðàm Loan đại sư còn giảng câu ‘công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ’ như sau: ‘Từ nghiệp trí huệ thanh tịnh của Bồ Tát phát khởi trang nghiêm Phật sự, nương pháp tánh nhập tướng thanh tịnh. Pháp ấy chẳng điên đảo, chẳng hư ngụy nên gọi là công đức chơn thật’. Ðàm Loan đại sư quả đã phơi bày trọn vẹn tạng bí mật của Như Lai: Bồ Tát nương vào Thật Tế của pháp tánh để nhập vào trí huệ chơn thật (tức là ‘chơn thật huệ’ nói trong kinh này) nên xa lìa điên đảo, hư ngụy. Ðấy là công đức chơn thật. Công đức chơn thật chính là ‘công đức vô lượng’. Thế giới Cực Lạc trang nghiêm bằng công đức chơn thật như thế nên ‘trang nghiêm đầy đủ’. Do vậy, cõi ấy ‘thành tựu được sức chẳng thể nghĩ bàn’.

Vãng Sanh Luận Chú còn bảo: ‘Chữ “sức chẳng thể nghĩ bàn” chỉ chung mười bảy sức công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn trong cõi Phật ấy… Trong những sức ấy, sức cõi Phật chẳng thể nghĩ bàn lại gồm hai điều:

a. Một là nghiệp lực, nghĩa là do nghiệp lực của đại nguyện thiện căn xuất thế của Bồ Tát Pháp Tạng cảm thành.

b. Hai là do sức khéo trụ trì của đấng Chánh Giác A Di Ðà pháp vương nhiếp thọ’.

Trong mười bảy sức vừa nói, sức thứ nhất là Trang Nghiêm Thanh Tịnh Công Ðức Thành Tựu. Sách Luận Chú viết: ‘Thanh tịnh là tổng tướng. Sở dĩ Phật khởi ra công đức trang nghiêm thanh tịnh này là do ngài thấy tam giới là tướng hư ngụy, là tướng luân chuyển, là tướng vô cùng (ám chỉ sanh tử) như con cuốn chiếu cuộn tròn, như tằm kéo kén tự nhốt mình.

Thương ôi chúng sanh điên đảo bất tịnh! Muốn đặt chúng sanh nơi chẳng hư ngụy, nơi chẳng luân chuyển, nơi chẳng có [sanh tử] vô cùng, được hưởng chốn thanh tịnh đại an lạc rốt ráo nên Phật khởi lên công đức thanh tịnh trang nghiêm này’.

Ở đây, những điều như kinh dạy: ‘Vĩnh viễn chẳng có danh từ các khổ, các nạn, đường ác, ma não loạn’ cũng chính là do sức công đức thành tựu ấy chiêu cảm vậy.

‘Các khổ’: Khổ có nghĩa là bức bách não loạn. Sự khổ rất nhiều, trong các kinh luận thường nói ba khổ, tám khổ v.v… Ba khổ là:

a. Khổ khổ: Thân này đã là quả của cái khổ, lại còn thêm bị các nỗi khổ bức bách thân tâm nên khổ càng thêm khổ; vì vậy gọi là ‘khổ khổ’.

b. Hoại khổ: Thế gian này nào có niềm vui chơn thật, nào có sự vui lâu dài, ngay lúc niềm vui tan biến đã không ngăn nổi ưu não nên bảo là ‘hoại khổ’.

c. Hành khổ: chẳng khổ, chẳng vui nhưng do niệm niệm lưu chuyển nên bảo là ‘hành’. Rốt cục cũng biến diệt nên bảo là ‘hành khổ’.

Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ba thứ khổ trên đây như sách Sớ Sao bảo: ‘Cõi ấy ly dục thanh tịnh nên không có khổ khổ. Y báo, chánh báo luôn tồn tại bất biến nên không có hoại khổ. Vượt thoát tam giới nên không có hành khổ’.

Tám khổ chính là những nỗi khổ của thế nhân như: sanh, lão, bịnh, tử, yêu thương mà bị chia lìa, thù ghét cứ phải gặp mặt, cầu không được toại ý và năm ấm lừng lẫy:

a. Sanh trong thai ngục (trong thai chật hẹp như trong ngục nên gọi là thai ngục) là ‘sanh khổ’.

b. Già sợ chết chóc là ‘lão khổ’.

c. Bị bịnh đau đớn là ‘bịnh khổ’.

d. Khi chết đau buồn nỗi khổ phân tán (tứ đại nơi thân mình chia lìa, chia ly cùng quyến thuộc hiện đời), đó là ‘tử khổ’.

e. Yêu thương luôn muốn hòa hợp, ghét chia ly, nhưng luôn thường mâu thuẫn, chia cách với người thân, chẳng được ở chung với nhau. Ðấy là ‘ái biệt ly khổ’.

f. Oán ghét thì muốn trốn đi, sợ phải chạm mặt nhau, nhưng luôn đụng phải kẻ oán cừu, căm ghét. Muốn mong xa lánh lại cứ phải chung đụng. Ðấy gọi là ‘oán tắng hội khổ’.

g. Cầu mong thì chỉ muốn đạt được, sợ mất mát, nhưng hết thảy sự vật trong thế gian hễ tâm yêu thích thì chẳng cầu được. Ðấy là ‘cầu bất đắc khổ’.

h. Ngũ ấm xí thạnh khổ (khổ vì năm ấm lẫy lừng) được sách Viên Trung Sao giảng như sau: ‘Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ấm có nghĩa là ngăn che, tức là chúng ngăn che chẳng cho chơn tánh phát hiện. Thạnh có nghĩa là to lớn, lừng lẫy. Do các nỗi khổ: sanh, già, bịnh, chết… vừa nói ở trên tụ tập lại nên bảo là ngũ ấm xí thạnh khổ’.

Tám thứ khổ này cùng nung đốt thế nhân, nhưng cõi Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có các nỗi khổ đó. Sách Sớ Sao bảo:

Cõi kia liên hoa hóa sanh nên không có sanh khổ. Chẳng có nóng  lạnh đắp đổi, thân chẳng bị phần đoạn (phần đoạn sanh tử) nên không có bịnh khổ. Thọ mạng vô lượng nên không có tử khổ. Không có cha mẹ, vợ con nên không có ái biệt ly khổ. Các thượng thiện nhân cùng ở chung một nơi nên không có oán tắng hội khổ. Muốn gì liền tự nhiên có ngay nên không có cầu bất đắc khổ. Quán chiếu không tịch nên không có ngũ ấm thạnh khổ’.

Chữ ‘các nạn’ chỉ tám nạn, tức là những điều gây chướng ngại cho việc gặp Phật, nghe pháp. Tám nạn còn gọi là ‘bát vô hạ’, nghĩa là tám điều khiến ta không được nhàn hạ để tu đạo nghiệp. Sách Viên Trung Sao bảo tám nạn là:

‘a. Một là địa ngục nạn: Trong địa ngục đêm dài tăm tối, chịu khổ không ngớt, ngăn lấp việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

b. Hai là súc sanh nạn: Trong đường súc sanh chịu khổ vô cùng, ngăn lấp việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

c. Ba là ngạ quỷ nạn: trong đường ngạ quỷ chịu khổ vô lượng, ngăn trở việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

d. Bốn là Trường Thọ Thiên nạn, nghĩa là sống trong cõi trời ấy thọ đến năm trăm kiếp; đó chính là cõi trời Vô Tưởng thuộc tầng trời Ðệ Tứ Thiền của Sắc Giới. Cõi ấy mang tên Vô Tưởng vì tâm thức chẳng khởi lên, giống như cá nằm trong băng, như sâu nằm trong kén. Ngoại đạo tu hành đa phần sanh lên cõi trời này. Do chướng ngăn gặp Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

e. Năm là Bắc Uất Ðan Việt nạn: Uất Ðan Việt là tiếng Phạn, Tàu dịch là Thắng Xứ, nghĩa là cõi ấy cảm báo thù thắng hơn cả ba châu Ðông, Tây, Nam. Người cõi ấy thọ một ngàn năm, không hề chết yểu. Do ham vui nên chẳng nhận lãnh nổi sự giáo hóa. Vì thế, thánh nhân chẳng giáng sanh trong cõi ấy nên chẳng được gặp Phật, nghe pháp; bởi vậy gọi là nạn.

f. Sáu là manh lung ám á nạn, nghĩa là những kẻ ấy sanh tuy sanh chính giữa đất nước nhưng do nghiệp chướng sâu nặng nên mù, điếc, câm ngọng, các căn chẳng đủ, dẫu Phật xuất thế vẫn chẳng thấy nổi Phật. Dù [có người] giảng đại pháp vẫn chẳng nghe nổi nên gọi là nạn.

g. Bảy là thế trí biện thông nạn, nghĩa là người trong thế gian tà trí sắc sảo, miệt mài ham mê tập tành kinh sách ngoại đạo, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Vì vậy, gọi là nạn.

h. Tám là sanh Phật tiền Phật hậu nạn, nghĩa là: Khi Phật xuất hiện trong đời làm bậc đại đạo sư khiến cho chúng sanh thoát ly cái khổ sanh tử, hưởng vui Niết Bàn; ai có duyên thì được gặp gỡ, còn những kẻ sanh ra trước hay sau thời Phật xuất thế thì do nghiệp nặng duyên mỏng nên đã chẳng được thấy Phật, lại còn chẳng được nghe pháp. Do vậy, gọi việc sanh ra trước Phật hay sau Phật là nạn’.

Sách nói thêm: ‘Tám điều nạn ấy tuy là cảm lấy quả báo khổ, vui sai khác nhưng đều do chẳng được thấy Phật, chẳng nghe chánh pháp nên gọi chung là nạn’.

Thế giới Cực Lạc ‘vĩnh viễn không có các nạn’ như sách Viên Trung Sao nói:

‘Do không có nhân của ba độc, chẳng tạo nghiệp ác nghịch nên chẳng có khổ quả tam đồ, không có chướng nạn tam đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).

Nghe pháp nhập định, chẳng đọa vào Vô Tưởng nên chẳng có Trường Thọ Thiên nạn.

Tuy thọ sự vui tột bậc nhưng thường được hưởng sự giáo hóa nên chẳng có Bắc Câu Lô Châu nạn (tức là Uất Ðan Việt nạn).

Sáu căn thanh tịnh, sắc bén, thông tuệ nên không có nạn đui điếc câm ngọng.

Chúng sanh sanh về cõi ấy đều nhập Chánh Ðịnh Tụ nên không có nạn thế trí biện thông.

Nay đức A Di Ðà Phật hiện đang thuyết pháp đến vô lượng kiếp, Quán Âm sẽ tiếp nối ngài làm Phật, hiệu là Phổ Quang Công Ðức Sơn Vương Phật nên chẳng có nạn sanh trước hay sau Phật’.

‘Ác thú’ (đường ác): Chữ ‘thú’ có nghĩa là chỗ chúng sanh hướng đến. Có nhân ắt có quả, từ nhân hướng đến quả nên gọi là ‘thú’. Luận Câu Xá, quyển 8 chép: ‘Thú nghĩa là đi đến’. Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký cũng giảng: ‘Từ một chỗ này đến một chỗ khác nên gọi là thú’. ‘Ác thú’ chính là ‘ác đạo’, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; đó là ba ác đạo.

Kinh A Di Ðà dạy: ‘Cõi nước Phật ấy không có ba ác đạo. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy còn không có danh từ ác đạo huống là thật có’. Ðây chính là do nguyện thứ nhất ‘nước không có ác đạo’ thành tựu.

‘Ma não loạn’: Ma là cách gọi tắt chữ Phạn ‘Ma La’, dịch nghĩa là Năng Ðoạt Mạng, Chướng Ngại, Nhiễu Loạn, Phá Hoại v.v… Sách Nghĩa Lâm Chương, quyển sáu bảo: ‘Ma nói đủ là Ma La, Tàu dịch là Nhiễu Loạn, Chướng Ngại, Phá Hoại. Do chúng nhiễu loạn thân tâm, chướng ngại thiện pháp, phá hoại sự tốt đẹp bậc nhất nên gọi là Ma La. Tàu gọi tắt là Ma’. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển 12 cũng giảng: ‘Ma La, Tàu dịch là Lực, tức là tên khác của ma vương Ba Tuần trong cõi Tha Hóa Tự Tại. Loài quỷ thần này có đại thần lực có thể gây chướng nạn cho những người tu pháp xuất thế nên gọi là Ma La’.

Sách Trí Ðộ Luận lại bảo có bốn loại ma:

a. Một là phiền não ma: các phiền não như tham, sân, si… não hại thân tâm nên gọi là Ma.

b. Hai là ấm ma, tức ngũ ấm: sắc, thọ… sanh ra các thứ khổ não nên gọi là Ma.

c. Ba là tử ma: cái chết đoạt mất mạng căn của con người nên gọi là Ma.

d. Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử ma, ma vương này hay hại sự lành của người khác nên gọi là Ma.

Trong bốn loại này, loại thứ tư mới chính là ma thật sự, còn ba loại ma kia do gây chướng tương tự như ma nên cũng gọi là Ma.

‘Ma làm não loạn’ tức là ma khiến cho thân tâm bị não hại. Hơn nữa, phiền não cũng là ma. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ma làm não loạn là do bởi toàn thể cõi Cực Lạc là một thanh tịnh cú, lại được trang nghiêm bởi ‘trụ chơn thật huệ’, khai thị bởi chơn thật tế nên có thể ban cho ‘cái lợi chơn thật’. Trong cái chơn thật một pháp thanh tịnh ấy còn chẳng có cả danh từ ‘ma não loạn’ huống hồ là thật có như kinh Pháp Hoa đã dạy: ‘Phật bảo: “Nếu có kẻ nữ nghe kinh điển này mà tu hành đúng như lời dạy thì kẻ ấy mạng chung liền được vãng sanh An Lạc thế giới, A Di Ðà Phật và đại Bồ Tát chúng vây quanh trụ xứ, sanh trong hoa sen, ngồi trên tòa báu, chẳng còn bị tham dục não loạn, cũng chẳng còn bị nóng giận, ngu si não loạn, cũng chẳng bị kiêu căng, ghen ghét não loạn, đắc thần thông Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát”.

Ðoạn kinh trên đã chỉ rõ thế giới Cực Lạc không có các điều chướng não.

Vả lại, trong uế độ, chúng sanh do niệm Phật còn trừ được ma sự huống hồ là khi đã sanh về cõi kia. Kinh Thập Vãng Sanh chép: ‘Phật nói: “Nếu có chúng sanh niệm A Di Ðà Phật nguyện vãng sanh thì đức Phật ấy liền sai hăm lăm vị Bồ Tát ủng hộ hành giả dù đi hay ngồi, dù đứng hay nằm, dẫu ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ chẳng để cho ác quỷ, ác thần có cơ hội làm hại”.

Hơn nữa, tu hành trong cõi này nếu lỡ bị ma khuấy vẫn có thể dùng niệm Phật để đối trị được (xem phần 2 cuốn 9 sách Ma Ha Chỉ Quán).

Sách Tịnh Ðộ Tu Chứng Nghi cũng nói: ‘Pháp lý quán của mười thừa có thể khiến cho chín cảnh ma sự phát khởi vì hành giả dùng pháp sanh tử mê ám của ngũ ấm làm quán cảnh vậy. Còn pháp sự quán của Tịnh Ðộ dùng ngay cái quả thanh tịnh công đức của Phật Di Ðà làm cảnh nên vĩnh viễn không có ma sự. Lúc tâm không tà niệm thì thánh cảnh hiện tiền, quang minh chiếu sáng’.

Di Ðà quả đức vô lượng thanh tịnh nên trong cõi ngài vĩnh viễn chẳng có ma sự!

‘Cũng không có bốn mùa, nóng lạnh, mưa tối tăm sai khác’: Bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu, Ðông. ‘Nóng lạnh’ chỉ tiết trời cực nóng, cực lạnh, ‘mưa tối tăm’ chỉ mưa gió đen nghịt. So với mười bảy thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cõi Cực Lạc, câu này thể hiện công đức thứ ba: Trang Nghiêm Tánh Công Ðức Thành Tựu.

Sách Luận Chú giảng: ‘Tánh có nghĩa là gốc. Cõi Tịnh Ðộ đó tùy thuận pháp tánh, chẳng trái nghịch gốc pháp. Tánh còn có nghĩa là tất nhiên, chẳng biến đổi như tánh của biển là một vị: các dòng nước chảy vào biển đều trở thành một vị. Tánh của biển chẳng bị biến đổi theo các dòng nước kia vậy’.

Nay cõi Cực Lạc, xét về trời, chẳng có bốn mùa v.v… xét về đất, cũng chẳng có các tướng sông, biển, núi, hang, chỉ là một cõi đất mênh mông, bát ngát, phẳng phiu, thuần sắc vàng ròng. Người cõi ấy lại như sách Luận Chú bảo: ‘Những kẻ vãng sanh không ai chẳng được tịnh sắc, không ai chẳng được tịnh tâm, rốt ráo đều đắc thanh tịnh bình đẳng vô vi Pháp Thân’. Câu này chứa đựng mật ý: tánh bình đẳng như đất, biển pháp một vị. Ðó là Tánh Trang Nghiêm Công Ðức Thành Tựu vậy.

‘Lại chẳng có sông biển lớn nhỏ, gò đống, hầm hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá, núi đất…chỉ tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất’: Không có biển, sông, Tu Di… là hiển thị tánh công đức thành tựu.

‘Tu Di’ dịch là núi Diệu Cao, là trung tâm của một tiểu thế giới. Núi ấy do bốn báu hợp thành, nằm giữa đại hải, cao khỏi mặt nước ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Mặt ngoài có chín ngọn núi, tám cái biển. Phía ngoại vi của núi Tu Di gọi là ‘Thiết Vy sơn’. Ngay chính giữa đảnh núi Tu Di là chỗ ở của Ðế Thích, ba mươi hai vị trời khác ở khắp bốn mặt núi. Trời Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi. Bốn đại châu như Nam Thiệm Bộ châu v.v… ở quanh bốn mặt biển (Mặt trời xoay quanh núi Tu Di. Trước đây có người cho rằng núi Tu Di nằm ngay trên địa cầu thì thật là lầm lẫn lớn. Xét ra, ít nhất, Tu Di cũng to bằng mặt trời. Nam Thiệm Bộ Châu chính là địa cầu. Kinh dùng chữ ‘thủy’ (nước) để chỉ những vật thể lưu chuyển, ‘hải’ tức là chỗ tích tụ các vật thể lưu chuyển ấy, chứ nào phải là ‘biển cả’ như thế gian thường hiểu).

Sách Hội Sớ giảng chữ ‘tự nhiên là bảy báu’ như sau: ‘Cõi uế Sa Bà do tạp nghiệp cảm thành nên dùng bùn, đất, sỏi, sạn làm chất đất, còn cõi kia chuyên do tịnh tâm vô lậu biến hiện nên dùng thất bảo làm thể. Cõi ấy do bố thí, trì giới cảm thành, tánh chẳng tạo tác nên gọi là tự nhiên’. Ý chỉ của câu ‘tánh chẳng tạo tác nên gọi là tự nhiên’ của đoạn văn trên thật tương đồng với lời nhận định của Luận Chú: ‘Tánh có nghĩa là tất nhiên’. Tánh đức tự nhiên do chẳng có cách nào tạo tác được, đấy là ý nghĩa chữ ‘tự nhiên’. Có công tu đức nên tánh đức tự hiển hiện một cách tự nhiên như vậy; đấy là ý nghĩa chữ ‘tự nhiên’ trong kinh.

Về chữ ‘bảy báu’, các bản dịch và các kinh, luận nói đôi chút khác biệt.

Trong kinh này, chữ ‘bảy báu’ chỉ ‘vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não’ (chữ ‘mỹ ngọc’ lấy từ bản Ðường dịch, chữ ‘thủy tinh’ lấy từ hai bản dịch Hán và Ngô).

Kinh A Di Ðà bảo bảy báu là ‘vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não’. Trí Ðộ Luận lại bảo là ‘vàng, bạc, tỳ lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, xích chơn châu’ (loại châu này cực quý, khác hẳn san hô). Kinh Bát Nhã lại gộp cả hổ phách vào trong bảy báu, bản Ngụy dịch cũng kể tên hổ phách. Nói tổng quát là các thứ báu trong cõi Cực Lạc đều vi diệu, đẹp đẽ lạ lùng, vượt xa các báu trong thế gian, chẳng qua là mượn tạm tên gọi các vật báu trong cõi trần này để dễ mô tả đó thôi.

Câu ‘tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất’ ý nói: bảy báu như: vàng ròng… tánh đức tự nhiên hợp thành mặt đất. Bản Ngụy dịch chép: ‘[Trong] cõi đức Phật ấy, tự nhiên bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hợp thành đất’. Quán kinh cũng chép: ‘Trên đất lưu ly dùng dây vàng ròng kết lẫn với bảy báu để phân chia thành từng khu vực rành rẽ. Mỗi một thứ báu có năm trăm sắc quang. Quang minh ấy như đóa hoa, lại có quang minh tương tự như tinh tú, mặt trăng treo lơ lửng trên hư không’.

Mặt đất cõi nước Cực Lạc chẳng có đất, đá, chỉ thuần trang nghiêm bằng các thứ báu mầu nhiệm tánh đức như Vãng Sanh Luận nói: ‘Ðầy đủ tánh trân bảo, đầy đủ trang nghiêm mầu nhiệm’. Chữ ‘tánh trân bảo’ chỉ những thứ quý báu sẵn có trong tự tánh. Ðấy chính là môn ‘các thứ sự trang nghiêm công đức thành tựu’ được nói trong Vãng Sanh Luận.

‘Bằng phẳng, rộng rãi bao la chẳng thể hạn lượng’: tâm tịnh cõi nước tịnh, tâm bình cõi nước bình. Do tâm địa bình đẳng nên đại địa bằng phẳng. Câu kệ sau đây trong Vãng Sanh Luận: ‘Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé’ đã diễn tả ý ‘rộng rãi bao la chẳng thể hạn lượng’ nói trong kinh này. Sách Luận Chú giảng: “Như hư không” là ý nói chúng sanh tuy đông, nhưng vẫn như không có, nghĩa là: thập phương chúng sanh vãng sanh, dù đã sanh, hoặc đang sanh, hay sẽ sanh tuy vô lượng vô biên nhưng rốt ráo luôn như hư không. “Rộng lớn không ngằn mé’ là trọn chẳng có lúc kết cuộc’. Ðấy chính là môn Trang Nghiêm Lượng Công Ðức Thành Tựu được nói trong Vãng Sanh Luận: số lượng các thứ trang nghiêm chẳng có chừng hạn vậy.

‘Vi diệu đẹp đẽ, lạ lùng, thanh tịnh trang nghiêm’: ‘Diệu’ là đẹp đẽ một cách thù thắng khó nghĩ tưởng nổi. ‘Vi diệu’ nghĩa là đẹp đẽ nhất trong các thứ diệu, khó nghĩ tưởng nhất trong các thứ khó nghĩ tưởng nổi. ‘Ðẹp đẽ’ (lệ) là tuyệt đẹp, đẹp rực rỡ. ‘Lạ lùng’ (kỳ) là lạ, là chẳng tầm thường, đặc biệt, phi thường. Như vậy, ‘kỳ lệ’ nghĩa là đẹp đẽ, xinh khéo, rực rỡ một cách lạ lùng, đặc biệt, vượt trỗi, độc đáo. Chẳng hạn như, mặt đất cõi Cực Lạc do bảy báu hợp thành, trong mỗi thứ báu lại có năm trăm quang sắc. Quang minh ấy có hình như đóa hoa hoặc như vầng trăng nên bảo là ‘kỳ lệ’.

‘Thanh tịnh trang nghiêm’: ‘Thanh tịnh’ là vĩnh viễn thoát khỏi tạp nhiễm, ‘trang nghiêm’ là đầy đủ vạn đức. Sách Luận Chú nói: ‘Từ nghiệp trí huệ thanh tịnh của Bồ Tát phát khởi để trang nghiêm Phật sự, nương pháp tánh nhập tướng thanh tịnh’. Sách còn nói: ‘Tánh nghĩa là gốc. Cái năng sanh (tức là tánh) đã tịnh thì cái sở sanh (tức là cõi nước) lại chẳng tịnh hay sao?’. Ðó là do cõi Cực Lạc được trang nghiêm thành tựu bằng bổn tánh thanh tịnh vậy.

Trong phẩm năm “Chí Tâm Tinh Tấn” của bản kinh này, Pháp Tạng tỳ kheo từng nguyện khi thành Phật thì trí huệ, quang minh, cõi nước, danh hiệu của ngài đều vang dội mười phương, ngài còn bảo: ‘Tôi lập nguyện này đều vượt trội vô số các cõi nước Phật’. Do Pháp Tạng Bồ Tát khi tu nhân đã phát nguyện vượt trội vô số các cõi Phật nên đến khi ngài thành Phật, bổn nguyện ấy liền tự được thành tựu như thế. Phẩm mười hai ‘Quang minh chiếu khắp mười phương’ có chép: ‘Vốn do trong đời trước cầu đạo, đã phát nguyện công đức có lớn nhỏ sai khác nên đến khi thành Phật, mỗi người tự đạt được [quả báo sai khác], tự tại thành tựu chẳng thể tính trước nổi’. Vì vậy, cõi nước Cực Lạc trang nghiêm đầy đủ ‘vượt trội hết thảy cõi nước trong mười phương’. (Do Phật Di Ðà lập nguyện được quả báo vượt trội mười phương nên công đức phát nguyện của ngài thù thắng hơn chư Phật khác. Do đó, ngài cảm được quả báo: thân và cõi nước đều thù thắng bậc nhất)  

Chánh kinh: A Nan nghe xong, bạch Thế Tôn rằng: ‘Nếu cõi nước ấy không có núi Tu Di thì Tứ Thiên Vương thiên và Ðao Lợi thiên nương vào đâu mà trụ?’  

Giải: ‘Ðao Lợi thiên’ dịch là Tam Thập Tam thiên, là tầng trời thứ hai trong sáu tầng trời Dục giới, ở ngay trên đảnh núi Tu Di. Chính giữa có một thiên thành là chỗ ngự của Ðế Thích. Bốn phía, mỗi phía có tám thiên thành, cộng chung thành ba mươi ba nơi nên có tên là Tam Thập Tam thiên. Chư thiên trong cõi trời Ðao Lợi và trời Tứ Thiên Vương đều nương theo núi Tu Di mà trụ nên A Nan nghe đức Phật nói cõi ấy không có núi Tu Di liền hỏi ngay các vị trời ấy sẽ nương vào đâu mà trụ?  

Chánh kinh: Phật bảo A Nan: ‘Hết thảy chư thiên trời Dạ Ma, Ðâu Suất, cho đến Sắc, Vô Sắc giới nương vào đâu mà trụ?’ A Nan bạch rằng: ‘Do nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn nên đạt được như vậy’. 

Giải: ‘Dạ Ma’ nói đủ là Tu Dạ Ma, là tầng trời thứ ba trong Dục Giới thiên. Tứ Thiên Vương thiên và Ðao Lợi thiên phải nương theo núi Tu Di để trụ nên gọi là Ðịa Cư thiên. Từ trời Dạ Ma trở lên đều ngự trên không trung nên gọi là Không Cư thiên.

Dạ Ma dịch là Thời Phận, Thiện Phận. Phật Ðịa Luận nói: ‘Nói về Dạ Ma thiên thì do cõi trời này tùy thời hưởng lạc nên gọi là Thời Phần’. Ðâu Suất dịch là Thượng Túc, Diệu Túc, Tri Túc, Hỷ Túc v.v… là tầng trời thứ tư trong Dục giới. Do chư thiên đối với những sự vui ngũ dục sanh tâm vui thích nhưng tri túc nên gọi là Hỷ Túc. Nội viện tầng trời ấy là cõi Tịnh Ðộ của Di Lặc Ðại Sĩ, ngoại viện là chốn dục lạc của thiên chúng.

‘Sắc, Vô Sắc giới’: Sắc là chư thiên Sắc giới, chữ ‘Vô Sắc’ chỉ chư thiên trong Vô Sắc giới. Ðó là những cõi trời nằm phía trên các tầng trời Dục Giới, đều trụ trong hư không. Vì thế, Phật mới hỏi A Nan: Nếu vì không có núi Tu Di mà bảo là chư thiên không có chỗ để trụ thì các vị trời từ cõi Dạ Ma trở lên nương vào đâu để trụ? Ngay các vị trời cõi Dạ Ma trong thế giới Sa Bà này còn chẳng cần nương vào núi Tu Di để trụ trong hư không thì chư thiên trong cõi Cực Lạc cần chi núi Tu Di!

A Nan đáp rằng: Do bởi có nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn nên chư thiên mới có thể nương hư không mà trụ.

Sách Câu Xá Quang Ký, quyển mười ba giảng chữ ‘nghiệp’ như sau: ‘Tạo tác là nghiệp’; ý nói: do thân, khẩu, ý tạo tác nên gọi là nghiệp. Làm ác là ác nghiệp, làm lành là thiện nghiệp. Thiện nghiệp có công năng sanh ra quả vui, ác nghiệp có tác dụng sanh ra quả ác; do vậy gọi là ‘nghiệp lực’. Sách Hữu Bộ Tỳ Nại Da (Luật tạng của phái Nhất Thiết Hữu Bộ), quyển bốn mươi sáu ghi: ‘Nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn! Dẫu xa xôi cách mấy vẫn lôi kéo được. Khi quả báo đã thành thục thì dẫu trốn tránh vẫn khó thoát được’.

 Chánh kinh: Phật bảo A Nan: ‘Ông có biết chăng: nghiệp chẳng thể nghĩ bàn; thân ông quả báo chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp báo của chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn, thiện căn của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn; thánh lực của chư Phật, thế giới của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do công đức, thiện lực của chúng sanh cõi ấy, do trụ hạnh nghiệp địa và do thần lực của Phật nên mới được như thế đó’.

 Giải: Theo sách Tiên Chú, chữ‘quả báo’ chỉ những kết quả và báo ứng do những hành vi thiện ác trong quả khứ cảm thành nên gọi là quả báo. Quả và báo vốn cùng một thể. Nếu phân tích tỉ mỉ thì cảnh giới mà nay chúng ta gặp phải đều là kết quả của nghiệp nhân đã tạo trong quá khứ, đấy gọi là ‘quả’; còn hậu quả tương ứng với nghiệp duyên đã tạo thì gọi là ‘báo’.

Cái gì có khả năng sanh ra sự vật thì gọi là ‘nhân’, còn những gì hỗ trợ cho nhân kết thành quả thì gọi là ‘duyên’. Ví dụ như hạt giống của lúa gạo hay lúa mạch là nhân; người nông phu cày bừa, mưa, sương thấm tưới là duyên. Thóc, lúa mạch thâu hoạch năm nay chính là từ hạt giống từ năm ngoái; nên nếu so với thóc, lúa mạch năm ngoái thì thóc và lúa mạch năm nay chính là quả. Nếu đem so với sức nông phu, mưa, sương v.v… thì thóc lúa năm nay chính là báo [của những duyên đó].

‘Chẳng thể nghĩ bàn’ là vượt khỏi sự hiểu biết, suy nghĩ, chẳng thể dùng tư duy, ngôn ngữ của chúng sanh để lãnh hội, diễn tả nổi. Trong câu ‘nghiệp báo của chúng sanh’, chữ nghiệp báo chỉ nghiệp nhân và quả báo. Do nghiệp nhân thiện hay ác nên gặp phải quả báo vui hay khổ.

Kinh Bảo Tích quyển chín mươi sáu chép: ‘Vua Diêm La thường bảo bọn tội nhân đó: ‘Chẳng có chút tội nào do ta tự thêm vào cả, tội của chính các ngươi nay đến ngày báo ứng, nghiệp báo tự mình chiêu cảm lấy, không ai chịu thay cho được’.

Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng chép: ‘Bồ Tát tự nghĩ: ta trong vô thỉ kiếp quá khứ do tham, sân, si, từ thân, miệng ý tạo các nghiệp ác vô lượng vô biên. Nếu những ác nghiệp đó mà có thể tướng thì hết cả cõi hư không cũng chẳng chứa đựng hết nổi’. Do tạo nghiệp vô biên nên báo cũng vô biên. Câu Xá Luận, quyển 9 chép: ‘Ðến ngay cả đức Thế Tôn cũng không cách chi ngăn ngừa vì thế lực của nghiệp mạnh mẽ nhất’; bởi thế, kinh nói ‘nghiệp báo của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn’.

Kinh Ðại Tập dạy: ‘Hạnh của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn’. Tổ Lâm Tế cũng nói: ‘Ông muốn biết Phật, Tổ ư? Ông chỉ cần nghe pháp ắt sẽ biết’ ‘Những việc hằng ngày có thiếu chi đâu? Thần quang của sáu đường chưa từng gián đoạn’. Như vậy, cảnh giới cùng việc làm thường nhật của chúng sanh đều là những thứ chẳng thể nghĩ bàn.

Câu kinh Pháp Hoa: ‘Dẫu người tâm tán loạn, vào trong tháp miếu, niệm Nam Mô Phật một tiếng còn đều đã thành Phật đạo’ thật đã hiển thị sâu xa rằng thiện căn của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể dùng suy lường, phân biệt để lãnh hội nổi.

‘Thánh lực của chư Phật, thế giới của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn’: Chữ ‘chư Phật’ chỉ khắp cả mười phương Như Lai. Trong chữ ‘thánh lực’, chữ ‘lực’ chỉ lực dụng. Theo sách Phạn Ngữ Danh Nghĩa Ðại Tập và quyển bốn mươi tám sách Tông Kính Lục thì có năm thứ lực: định lực, thông lực, tá thức lực, đại nguyện lực và Phật pháp oai đức lực. Năm thứ lực này chẳng thể nghĩ bàn nên kinh bảo ‘thánh lực chẳng thể nghĩ bàn’.

Theo kinh này, trong vô lượng kiếp, Pháp Tạng Bồ Tát trụ vào chơn thật huệ để trang nghiêm cõi Phật, hạnh đức như Phổ Hiền, khai hóa, hiển thị chơn thật tế, muốn cho hết thảy chúng sanh đều hưởng cái lợi chơn thật. Do vô lượng công đức chơn thật của đại nguyện, đại hạnh đó nên thành tựu được thánh lực và cõi nước đều chẳng thể nghĩ bàn.

Với mỗi thứ công đức trong mười bảy thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cõi nước, Ðàm Loan pháp sư đều bảo là ‘há nghĩ bàn nổi’ như: ‘Quang minh thực hiện Phật sự há nghĩ bàn nổi’, ‘nước trong cõi ấy thực hiện Phật sự há nghĩ bàn nổi’, ‘hình ảnh ấy làm Phật sự há nghĩ bàn nổi’, ‘tiếng ấy làm Phật sự há thể nghĩ bàn nổi’. Ðiều thù thắng nhất là những người vãng sanh ‘chẳng đoạn phiền não lại được hưởng Niết Bàn há nghĩ bàn nổi’.

Kinh Kim Cang Ðảnh cũng nói: ‘Chỉ mình cõi Phật ấy dùng trọn kim cang tự tánh thanh tịnh để tạo thành Mật Nghiêm Hoa Tạng’ (trong quyển 2, tôi đã chứng minh Mật Nghiêm Hoa Tạng chính là Cực Lạc thế giới). Cõi nước thắng diệu như vậy chẳng  từ vi trần tạo thành nên chẳng phải là vật chất thế gian, chẳng cần đến sức hấp dẫn giữa vạn vật để kết tụ nên cần chi núi Tu Di! Do vì cõi nước ấy do kim cang tự tánh thanh tịnh tạo thành nên kinh bảo ‘thế giới chẳng thể nghĩ bàn’.

Trong câu ‘do thiện lực, công đức của chúng sanh cõi ấy’, chữ ‘cõi ấy’ chỉ thế giới Cực Lạc. Những người vãng sanh phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm, dùng các thứ chánh hạnh, trợ hạnh, định thiện, tán thiện để cầu sanh Tịnh Ðộ, trì danh hiệu viên mãn vạn đức, nhập biển đại nguyện Nhất Thừa. Công đức thù thắng vô lượng vô biên như thế nên lực dụng thật chẳng thể nghĩ bàn. Lực dụng đạt được do tu tập gọi là ‘thiện lực’. Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Nương vào pháp để tu hành đúng đắn thì gọi là thiện lực’. Công đức và thiện lực của chúng sanh cõi Cực Lạc đều chẳng thể nghĩ bàn.

Sách Hội Sớ giảng chữ ‘trụ hạnh nghiệp địa’ như sau: ‘Hạnh nghiệp địa chính là sự thành tựu đại nguyện, đại hạnh, đại nghiệp của Phật A Di Ðà’. Chúng sanh cõi Cực Lạc do thiện lực của vô lượng công đức nên có thể an trụ trong những thành tựu tạo bởi đại nguyện, đại hạnh, đại nghiệp của A Di Ðà Như Lai; vì thế bảo là ‘trụ hạnh nghiệp địa’. Trong quyển 2, khi giải thích nguyện thứ 47, tôi đã từng dẫn Vãng Sanh Luận Chú để chứng tỏ rằng thấy được thân tướng Phật Di Ðà thì được thân nghiệp bình đẳng, nghe danh hiệu ngài thì được khẩu nghiệp bình đẳng, gặp quang minh của ngài chiếu đến thì hiểu được pháp và được ý nghiệp bình đẳng. Những điều như vậy chính là ‘hạnh nghiệp địa’ của Phật Di Ðà.

Do thiện lực công đức của chúng sanh cõi Cực Lạc, do sức an trụ vào hạnh nghiệp địa của Phật Di Ðà, và do oai thần vô thượng của đức Phật ấy nên cõi nước Cực Lạc chẳng cần phải nương vào núi Tu Di mà vẫn có thể an trụ một cách tự nhiên.

 Chánh kinh: A Nan bạch rằng: ‘Nghiệp nhân quả báo chẳng thể nghĩ bàn. Ðối với pháp ấy con chẳng nghi hoặc, chỉ là để phá trừ lưới ngờ cho chúng sanh trong đời tương lai nên con mới hỏi như thế’.

 Giải: Ðến đây, ngài A Nan mới nói rõ nguyên do thúc đẩy ngài nêu câu hỏi ấy: ngài thấy rõ chúng sanh trong đời tương lai tình chấp sâu nặng ắt sẽ nghi lầm điều đó (tức là nghi cõi Cực Lạc không có núi Tu Di thì sẽ nương vào đâu để an trụ) nên mới thay họ thưa hỏi. Trong cõi thế gian này, chúng sanh điên đảo chất chồng, chỉ khăng khăng chấp vào những hiện tượng và quy luật của thế giới này, dùng cái thấy biết hẹp hòi để suy xét cảnh giới của Phật. Thậm chí chấp vào cái thấy biết thiếu sót của mình rồi nghi ngờ lời Phật; nghe nói cõi Cực Lạc không có núi Tu Di liền nghi chư thiên cõi ấy biết nương vào đâu mà trụ?

Ðể phá nỗi nghi ấy, Phật liền hỏi ngược lại: Vậy thì các tầng trời như trời Dạ Ma v.v… trong cõi này lại nương vào đâu mà trụ? Chẳng lẽ cứ căn cứ theo sự tướng của trời Ðao Lợi để rồi ngờ vực cõi Cực Lạc hay sao?

Ngài A Nan đại quyền thị hiện vì chúng sanh mà thưa hỏi. Bởi thế, ngài chẳng nói ‘trụ vào không trung’ mà lại nói ‘chẳng thể nghĩ bàn’ để khơi gợi Thế Tôn dạy ra điều thù thắng, nêu lên yếu chỉ của toàn bộ kinh này: toàn bộ bản kinh này đều là ‘chẳng thể nghĩ bàn’ cả.

Ðiều chấp trước vừa được nói trên không những chỉ là chưa hiểu thấu Phật pháp mà còn mâu thuẫn với cả khoa học hiện đại. Do thế giới chúng ta đang sống là không gian ba chiều (tam duy không gian: 3-dimension space). Do vọng niệm chẳng ngừng nên những suy nghĩ, phân biệt của người đời chẳng thể vượt khỏi tánh chất hạn cuộc của thế giới này. Lẽ nào ta lại có thể dùng những quy luật của không gian ba chiều để suy lường không gian nhiều chiều trong thực tế một cách sai lạc hay sao?

Hiện tại, lý thuyết không gian nhiều chiều (đa duy không gian: multi-dimension space) đã được giới khoa học thừa nhận. Số chiều trong cõi Thường Tịch Quang của Phật ắt cũng phải là vô lượng.

Thật ra, chúng sanh cõi Cực Lạc vượt xa cảnh giới trời, người nhưng vì thuận theo các phương khác nên mới gọi là trời, người. Nói trời Ðao Lợi, trời Tứ Thiên Vương v.v… cũng chỉ là thuận theo cách nói thông thường của những phương khác. Kinh bảo thánh chúng cõi ấy ‘có người ở trên mặt đất nghe nhận kinh điển’, có người ‘ở trên hư không giảng tụng, nghe nhận’. Thánh chúng cõi ấy lại còn ‘cung điện tùy thuộc vào thân’ cho nên cung điện trong cõi ấy hoặc là ở trên mặt đất hoặc ở trên hư không. Vì vậy, những tầng trời như Dạ Ma (không cư), Ðao Lợi (địa cư)… chỉ là thí dụ.

Phẩm Siêu Thế Hy Hữu của kinh này cũng bảo: ‘Chỉ do thuận theo lề thói phương khác nên có danh từ trời, người’. Như vậy, trời, người và các tầng trời chỉ là cách nói thuận theo thế tục.

Xem mục lục