Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (8)


Xem mục lục

Ít ham muốn đồng nghĩa với ít đau khổ

Ham muốn là đau khổ 

KHÔNG CHẠY THEO ham muốn là thực hành Pháp; chạy theo ham muốn là không thực hành Pháp. Thật đơn giản như vậy. Luận giảng Khai mở Cánh cửa Pháp là những lời dạy từ cửa miệng của các geshe Kadampa mà bản thân họ đã tu tập và chứng nghiệm được; điểm chung của luận giảng là đoạn tuyệt bát phong, giải thoát khỏi ham muốn bám chặt cuộc đời này. Dù bạn đang tu tập Pháp hay không thì những suy nghĩ bất thiện của bát phong là nguồn gốc của tất cả chướng ngại và các vấn đề. Mọi sự không được như ý sẽ xảy đến vì những suy nghĩ về bát phong.

Khi có người bảo bạn buông bỏ ham muốn, bạn cảm thấy như thể người ta bảo bạn hy sinh hạnh phúc của mình. Từ bỏ ham muốn rồi thì sẽ không còn hạnh phúc, sẽ mất hết. Chỉ còn mỗi cái thân này thôi! Ham muốn của bạn bị tước đọat; người ta cướp mất hạnh phúc của bạn: bạn chẳng còn gì cả, bị mất sạch, giống như quả bóng bị xẹp. Bạn cảm thấy như thể không còn quả tim trong cơ thể nữa, như thể cuộc đời bị cướp mất.

Sở dĩ có suy nghĩ như vậy bởi vì bạn đã không nhận biết được những nhược điểm của ham muốn. Bạn đã không nhận ra  rằng bản chất của ham muốn là đau khổ. Chính ham muốn tự nó là một tâm không lành mạnh, gây đau khổ.Vì ham muốn, tâm tạo ra ảo tưởng và bạn không khả năng thấy được rằng có một thứ hạnh phúc khác, một hạnh phúc chân thật.

Ví dụ, khi ham muốn có một cái gì, muốn hưởng thụ nó, bạn liền gán cho kinh nghiệm này cái tên "sung sướng". Nó xuất hiện trước bạn như là sự sung sướng nhưng thực ra nó chỉ là sự đau khổ. Khi bạn tiếp tục hành động đó, chẳng hạn như ăn thức ăn, thì sự sung sướng của bạn không tăng mà chỉ giảm. Và khi bao tử bị đầy thì sự sung sướng của bạn bây giờ trở thành khổ khổ. Trước khi bản chất khổ của hành động được thấy rõ, nó trông như là sung sướng; nhưng khi nó được thấy rõ, nó trở thành khổ khổ. Khi khổ chưa được thấy rõ, thì cảm giác được gán cho cái tên "sự vui sướng" và có mặt như là sự vui sướng nhưng khi bạn tiếp tục hành động  thì cảm giác  đó từng bước trở thành khổ.

Sự bình an bạn kinh nghiệm được khi từ bỏ ham muốn sẽ dẫn dắt bạn tới Niết bàn, một trạng thái vô ưu. Sự bình an vắng bặt ham muốn này sẽ cho phép bạn phát triển trọn vẹn, để trở nên giác ngộ. Bạn có thể kinh nghiệm được sự bình an này mãi mãi. Ngay từ thời điểm đầu tiên mà bạn tự thoát khỏi suy nghĩ bát phong, khỏi ham muốn, bạn sẽ bắt đầu phát triển sự bình an này trong dòng tương tục tâm thức của bạn và cuối cùng bạn sẽ có được nó vĩnh viễn.

Nếu bạn cảm thấy rằng hy sinh ham muốn đồng nghĩa với hy sinh hạnh phúc và bạn chẳng còn gì cả thì bạn hãy nhớ rằng toàn bộ các vấn đề đều xuất phát từ ham muốn và những suy nghĩ bát phong. Một khi không biết được bản chất của nó là khổ, bạn không thể thấy được rằng có một thứ hạnh phúc tốt hơn. Bạn không thể thấy được rằng khi bỏ đi những suy nghĩ bát phong, khi giải thoát tâm bạn khỏi ham muốn, thì sẽ có một sự bình an đích thực, một hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc này không lệ thuộc vào bất cứ trần cảnh nào (đối tượng của các giác quan-ND), vì nó được phát triển bên trong tâm của bạn. Với tâm của bạn, bạn có thể phát triển sự bình an này.

Ví dụ, bạn có bệnh ngứa ở da. Bạn gãi cho đã ngứa đến nỗi làm trầy da của bạn. Như vậy thà đừng có ngứa sẽ tốt hơn là bị ngứa rồi gãi cho đã ngứa. Có phải đừng có bệnh ngứa thì tốt hơn không? Có ham muốn cũng giống như có bệnh ngứa.

Nếu không có ham muốn thì sẽ không có nhân cho mọi vấn đề nổi lên từ ham muốn. Sẽ không có những thay đổi tiếp tục. Nếu chúng ta đừng có thân xác này cùng với cõi luân hồi này được tạo nên bởi vọng niệm với nghiệp và bị ô nhiễm bởi hạt giống của vọng niệm thì chúng ta không phải kinh qua nóng và lạnh, đói và khát và tất cả những vấn đề khác nữa. Và chúng ta đã chẳng phải lo âu về sự sống còn và bỏ ra nhiều tiền bạc cùng với thời gian để chăm sóc thân này. Chúng ta bận rộn quá nhiều để gìn giữ thân này cho tốt. Chúng ta làm nhiều việc để làm đẹp thân này từ đầu tóc đến các ngón chân. Mất rất nhiều thời gian của đời người quý báu để chăm lo thân này. Tuy nhiên, khi bị đau nặng ngay cả thuốc men chưa chắc đã trị hết bệnh. Cho nên, có phải tốt hơn nếu không có thân này, không có kiếp luân hồi này? Và nếu như vậy, bạn không phải chịu đựng tất cả những vấn đề nêu trên.

Nếu không có ham muốn thì sẽ có sự bình an rất nhiều trong tâm - một sự bình an có thể được phát triển và được viên mãn.  Bình an này được xác lập cố định. Nhưng tìm kiếm sự vui thích ở cõi luân hồi luôn lệ thuộc vào ham muốn ngọai cảnh là chuyện không có kết cục. Dù bạn làm với nỗ lực bao nhiêu đi nữa để cố đạt mục tiêu thì cũng không có chỗ dừng. Giống như sóng biển cái này tiếp nối cái kia, công việc đó không bao giờ ngừng.

Trước hết, hạnh phúc tạm thời lệ thuộc vào ngoại cảnh thì có bản chất đau khổ; thứ hai, dù bạn làm gì đi nữa cũng không có cách nào để kết thúc việc tìm kiếm hạnh phúc tạm thời đó. 

Càng ít ham muốn càng ít đau khổ 

Như Ngài Long Thọ giải thích trong đoạn kệ mà ngài Dromtonpa thường trì tụng:

Được (lợi), mất (thiệt hại), khen, chê, sướng, khổ, vinh, nhục: bát phong này không phải là đối tượng của tâm tôi. Đối với tôi tất cả chúng nó đều như nhau.

Rất dễ hiểu được vấn đề sẽ như thế nào khi mất, khi khổ, khi bị chê, khi bị nhục. Những điều này thường dễ được nhận biết là những vấn đề. Nhưng bạn không thể nhận ra được rằng bốn trong bát phong là: được, sướng, khen, vinh là những vấn đề. Tuy nhiên, chúng y như nhau và đều là những vấn đề, là bát phong. Nhưng đối tượng tự bản thân nó không phải thành vấn đề. Được giàu sang không phải là vấn đề. Nên, điều gì là vấn đề? Vấn đề là tâm tham, cố được giàu sang - đó mới là vấn đề. Có được một người bạn không phải là vấn đề; chính tâm muốn có bạn khiến cho nhu cầu có bạn thành ra vấn đề.

Ham muốn khiến cho bốn mối quan tâm thế tục (tứ phong) - lợi (được), sống sung sướng (sướng), lời nói ưa thích (khen), sự ca ngợi (vinh) - trở thành vấn đề. Nếu không ham muốn, không quan tâm đến thế tục thì có hay không có những đối tượng này sẽ không trở thành vấn đề.

Vào một đêm bạn đang ngủ thoải mái thì một con muỗi chích bạn làm quấy nhiễu giấc ngủ của bạn. Nếu bạn bị bát phong tác động , nếu bạn có sự ham muốn mãnh liệt với sự tiện nghi thoải mái thì bạn sẽ rất bực tức khi bị con muỗi chích. Chỉ là việc bị con muỗi chích. Chẳng có gì nguy hiểm, chẳng có thể gây nên bệnh nghiêm trọng. Con muỗi chích lấy một chút xíu máu từ thân của bạn. Nhưng bạn bị sốc khi thấy thân con muỗi căng phồng với máu của bạn. Bạn tức giận con muỗi và bực mình suốt đêm. Ngày hôm sau bạn than phiền về con muỗi cả ngày: "Đêm qua tôi chẳng ngủ được tí nào cả". Mất ngủ một đêm thậm chí chỉ có vài giờ mà như thể mất một viên ngọc quý. Bạn bực mình y như một người bị mất triệu đô la. Đối với một số người, một vấn đề nhỏ như vậy trở nên to tát.

Có những người quá ham muốn được khen và được người khác kính nể mình. Nếu bạn làm lơ không để ý tới họ, nếu khi qua mặt họ mà bạn hỉnh mũi lên hay nói lời khiếm nhã với họ thì họ cảm thấy bị tổn thương nhiều. Hay nếu bạn tặng họ một món quà với cung cách không kính trọng dù vô tình hay cố ý, cũng làm họ khó chịu. Với những người như vậy, với quá nhiều ham muốn, qúa nhiều dính mắc thì dù là một va chạm, một xúc phạm nhỏ cũng trở thành vấn đề lớn. Giống như một mũi tên bắn vào tim họ.

Bất thình lình, cơn giận nổi lên mãnh liệt, mình mẩy trở nên căng thẳng. Trước đó gương mặt thoải mái bình thản bây giờ trở nên đáng kinh sợ - mặt trương phồng, da căng, tai và mũi nổi đỏ, các mạch máu gồ lên trên trán. Bất ngờ, họ có thái độ thô lỗ bực tức.

Càng muốn người khác khen hay nể mình thì càng thấy khó chịu tức tối khi không được như ý. Các đối tượng ham muốn khác cũng giống như vậy. Ham muốn sở hữu, tiện nghi, sung sướng, nghe lời ngọt ngào, được ca ngợi… càng lớn thì nỗi đau cũng lớn theo khi không được toại nguyện.

Bạn mong muốn bạn bè sẽ luôn hòa nhã, tử tế, luôn tôn trọng và chiều theo ý muốn của mình, nhưng vào một ngày, họ bất ngờ làm bạn bị tổn thương, dù chuyện không đáng cũng khiến bạn bị đau trong lòng, không thể chịu  đựng  được.

Tất cả phiền não này đều liên quan đến bát phong, đều do bạn quá ham muốn việc này việc nọ. Với bốn điều ưa thích mà bạn thấy không dính mắc thì bạn sẽ thấy không thành vấn đề khi gặp phải bốn điều không ưa thích. Càng ít ham muốn thì càng ít đau khổ. Nếu bạn cắt đứt được sự ham muốn bám chặt cuộc sống này thì bạn sẽ không thấy bị tổn thương khi bị phê bình hay khi không được lợi, bởi vì bạn không còn mong đợi nhận được lời khen hay mong được lợi nữa.

Và cũng y như vậy, khi không mong đợi bạn bè luôn tốt với mình, mỉm cười với mình, giúp đỡ mình khi cần, thì sẽ không thấy bị tổn thương khi bạn bè thay đổi thái độ, làm trái ý mình. Sẽ không có sự đau khổ trong lòng. Tâm được thanh thản và an lạc. Bằng cách cắt đứt ham muốn bám chặt bốn điều ưa thích bạn sẽ thấy không thành vấn đề khi bốn điều không ưa thích xảy đến. Chúng không gây tổn thương cho bạn, không thể quấy nhiễu tâm bạn.

Nghĩ ngợi đến bát phong sẽ khiến bạn bám chặt bốn  điều ưa thích với cuộc sống này. Không có suy nghĩ đó thì sẽ có sự thanh thản và an lạc rất nhiều trong tâm và khi gặp bốn điều không ưa thích, bạn sẽ không bị phiền muộn. Sẽ chẳng thấy hãnh diện nếu có ai ca tụng bạn; và lời chê bai cũng không  làm tâm dao động.  Có sự ổn định trong cuộc sống và sự an lành trong tâm. Không có sự bất ổn thăng trầm. Đây là cách san bằng bát phong.

Bằng cách nào giữ được tâm bình an khi có vấn đề xảy ra? Làm sao bảo vệ tâm để cho bốn điều không ưa thích sẽ không gây phiền muộn? Bằng cách nhận ra rằng vấn đề chính là sự dính mắc bám chặt vào bốn điều ưa thích. Bạn phải nhận ra được các nhược điểm của bốn điều ưa thích và buông bỏ sự dính mắc sự bám chặt vào chúng. Đây là tâm lý cơ bản. Nếu bạn sử dụng phương pháp này thì các điều không ưa thích không làm tâm dao động.

Geshe Chen-ngawa san bằng bát phong bằng cách trì tụng đoạn kệ như sau:

Vui sướng khi sống sung túc, khổ sở khi sống khó khăn: tất cả những hoạt động để được vui sướng là thuốc độc, cần được loại bỏ. Đạo đức và phi đạo đức là trách nhiệm của riêng tâm. Hãy dứt bỏ các động cơ phi đạo đức và cả những động cơ mà nó không phải đạo đức cũng không phải phi đạo đức.

Câu sau của đoạn kệ này đề cập đến các hành động của thân và khẩu với những động cơ không xác định được; chúng được gọi là những hành động "không tiên liệu".

Phương pháp tốt nhất để luyện tâm là mong đợi bốn điều không ưa thích thay vì bốn điều ưa thích. Hãy mong bị phê bình, bị chê bai và mong bị khinh rẻ bất kính. Phương pháp tu tập buông bỏ này - cắt đứt ham muốn - là một phương pháp tâm lý tốt nhất. Đã được luyện tâm mong những điều không ưa thích và khi nó xảy ra cụ thể thì nó sẽ không là cú sốc cho chúng ta; nó không gây thương tổn bởi vì chúng ta đang mong muốn nó.

Trước khi biết Phật Pháp, trước khi tu tập Thiền định bạn coi việc sống thiếu thốn, những lời nói không ưa thích, việc bị phê  bình và việc bị thiệt hại (bốn điều không ưa) là những vấn đề khốn khổ bất hạnh. Giờ đây nếu bạn khảo sát cho kỹ bản chất của tâm khi ham muốn được lợi, muốn sướng, muốn được khen, được ca ngợi (bốn điều ưa thích), bạn sẽ thấy chẳng có gì là vui sướng, bạn sẽ thấy cũng đau khổ. Đó không phải sự sung sướng mà bạn đã nghĩ tới trước khi biết về Pháp. Không phải sự bình an, mà là sự đau khổ phiền muộn.

Cái tâm bám dính khi ham muốn sẽ bị vướng kẹt vào đối tượng mà bạn muốn có. Khi bạn nghe lời tâng bốc: - "Anh thật thông minh", "Anh nói rất hay", "Anh am hiểu Pháp tường tận" - tâm bạn lúc này bị vướng kẹt vào sự ca tụng và không còn được tự do. Giống như thân bị dây xích xiết chặt, lúc này tâm bạn bị xiết chặt bởi ham muốn. Tâm bị cột, bị khống chế, bị xích bởi lòng tham (tham được khen-ND). Tâm giống như keo, dán chặt vào đối tượng. Hay như con bướm thiêu thân bay vào ngọn đèn cầy: toàn bộ thân con bướm, cánh, chân chìm hoàn toàn vào trong sáp đèn cầy. Thân và chân của con bướm rất mỏng manh không dễ gì gỡ ra được khỏi sáp. Hay như con ruồi dính vào mạng nhện: chân cẳng bị quấn chặt bởi mạng nhện và rất khó gỡ được ra. Hay như con kiến ở trong mật ong . Lòng tham chính là tâm mà nó đang bị kẹt dính vào đối tượng. 

Ham muốn là nguồn gốc của mọi vấn đề 

Như Lama Tsong Khapa nêu ra trong Lời bình Quan trọng về con đường Đạo từng Bước đến Giác Ngộ như sau:

Chúng ta theo đuổi ham muốn với hy vọng được thoả mãn, nhưng theo đuổi ham muốn chỉ đưa tới bất mãn.

Thực ra, quả của việc theo đuổi ham muốn chỉ là sự bất mãn. Bạn cố theo đuổi mãi nhưng vẫn chỉ là bất mãn.

Theo đuổi ham muốn nhưng rồi không tìm thấy sự mãn nguyện, đó là vấn đề then chốt của cõi luân hồi. Bị bệnh ung thư hay bệnh sida chẳng hạn cũng không phải là vấn đề lớn. Nếu so sánh với vấn đề "theo đuổi ham muốn và không thấy mãn nguyện" thì bệnh ung thư hay sida chẳng thấm vào đâu; các bệnh nan y này không kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. Nếu bạn không làm gì để giải quyết vấn đề ham muốn ngay trong đời này khi bạn có được thân người hoàn chỉnh, thì vấn đề đó sẽ nối tiếp từ đời này sang đời khác.

Việc theo đuổi ham muốn sẽ luôn cột chặt bạn trong luân hồi và bạn phải chịu đựng đau khổ không ngừng trong sáu cõi. Tái diễn hoài, không dứt. Tiếp tục theo đuổi ham muốn thì sẽ không có được sự mãn nguyện thật sự, không có bình an thật sự. Theo đuổi ham muốn chỉ đưa đến bất mãn và sẽ chịu đựng đau khổ liên tục ở một trong sáu cõi luân hồi.

Chính sự suy nghĩ bát phong sẽ không ngừng mang bệnh tật đến đe doạ chúng ta rất nhiều. Kiếp này sang kiếp khác, nó luôn mang lại các vấn đề nghiêm trọng mà con người phải chịu đựng; nó tái tạo nghiệp để rồi chúng ta phải liên tục kinh qua các vấn đề đó. Suy nghĩ đến bát phong, ham muốn bám chặt cuộc đời này chính là bệnh nghiêm trọng nhất. So sánh với bát phong, các vấn đề khác như bệnh tật chẳng thấm vào đâu.

Nếu không nghĩ đến bát phong (chúng đang cột bạn vào luân hồi), thì ngay cả khi nếu bạn bị giết, việc này chẳng qua là bạn thay một thân khác. Tâm thức bạn đến với một thân người hoàn chỉnh khác hay đi vào cõi tịnh độ. Như vậy việc bạn bị giết đích thị là một điều kiện để thay một thân khác. Nhưng nếu bạn nghĩ đến bát phong và không tu tập Pháp thì dù không bị ai giết và sống được trăm tuổi, bạn chẳng qua là liên tục sử dụng thân người hoàn chỉnh để tạo nhân cho việc tái sinh vào các cõi thấp; bạn sử dụng kiếp làm người may mắn này để tạo nhân cho những kiếp sau không may mắn và lúc đó bạn sẽ không có cơ hội tu tập Pháp. Càng sống lâu càng tạo nhiều nghiệp xấu, điều này khiến cho bạn tiếp tục đi vào cõi thấp và chịu đựng nhiều khổ đau. Do vậy, sự suy nghĩ đến bát phong gây nguy hại hơn nhiều so với kẻ thù giết bạn.

Lời dạy của Ngài Lama Tsong Khapa về việc theo đuổi ham muốn được tiếp tục như sau:

Ham muốn mang đến nhiều vấn đề khác nữa. Vì theo đuổi ham muốn, tâm bị nhiễu loạn, bất an.

Hàng trăm vấn đề đến từ sự bất mãn. Chẳng hạn, khi có ham muốn mãnh liệt, rất dễ dàng  nổi giận. Càng bám chặt vào ham muốn, cơn giận nổi lên càng mạnh. Nếu không bám chặt nhiều, bạn sẽ không khó chịu khi có ai đó quấy rầy bạn. Có thể bạn vẫn bị phiền muộn nhưng ít hơn. Giận dữ, ganh tị và những thứ khác nữa nổi lên đều có liên quan đến sự bám chặt vào ham muốn. Vì bám chặt nên các suy nghĩ bất thiện này nổi lên. Khi có bất kỳ suy nghĩ bất thiện nào nổi lên bạn sẽ tạo ra nghiệp bất thiện, nhân của đọa xứ.

Khi tâm bạn tràn ngập ham muốn, hoàn toàn bị che lấp bởi ham muốn, bạn không thể thiền định. Ngay cả nếu bạn có một ý tưởng nào đó về tánh Không, bạn sẽ rất khó cảm nhận được nó. Có những lúc khi tâm bạn tĩnh lặng và bình an bạn có thể có một cảm nhận nào đó về tánh Không nhưng khi tâm bạn bị loạn động- một đám sương mù của ham muốn che mờ mọi sự - thì bạn không thể nào thiền định tánh Không. Bạn cũng không thể phát hiện được những nhược điểm của ham muốn.

Khi ham muốn mãnh liệt về một đối tượng, bạn trở nên rất khổ sở nếu không có được nó. Bạn không thoải mái; thân sẽ không thư giãn bởi vì tâm không thư giãn. Mặc dù không phải làm việc nặng nhọc nhưng vì có ham muốn nên tâm không thoải mái, do vậy, thân cũng không thoải mái.

Có rất nhiều thí dụ về nhược điểm của ham muốn. Hãy lấy ví dụ về những người nghiện rượu, những người nghiện ma túy. Họ sống rất khổ sở, không tự kiềm chế, đến nỗi họ không thể làm gì được. Họ còn hủy hoại trí nhớ, mất tỉnh táo.

Bệnh tật đến từ những suy nghĩ tồi tệ của bát phong, từ sự bất mãn vì muốn mà không được; sự bất mãn này tạo nên những điều kiện của bệnh tật. Bạn có thể bị đau ốm nhiều năm tiêu tốn rất nhiều tiền mà lẽ ra không đáng phải tiêu. Khi không thể kiếm tiền đàng hoàng thì phải ăn cắp. Tâm bị rối loạn, thần kinh suy sụp, bạn bị điên. Rồi bạn lại phải tiêu tốn thời gian tiền bạc chữa bệnh tâm thần, thậm chí phải vào nhà thương.

Và nguồn gốc của mọi thứ này là gì? Là một khoảnh khắc của ham muốn không kiềm chế được. Chính khoảnh khắc khi bạn đã không tự bảo vệ mình chống lại bát phong, khi bạn đã không tu tập Pháp, khoảnh khắc đó mang đến nhiều vấn đề. Các vấn đề đó liên tục kéo dài nhiều năm, tốn nhiều tiền và khiến cho bạn gặp nhiều khó khăn phức tạp không cần thiết. Tất cả phiền muộn lo âu tốn kém này được phát sinh bởi suy nghĩ về bát phong. Nếu ngay từ ban đầu bạn giữ mình tránh khỏi bát phong thì tất cả những vấn đề không muốn có và những tiêu tốn đó trong bao năm đã không xảy ra. Bạn cần phải đừng bao giờ kinh qua những sự việc đó.

Rất rõ ràng, đây là nguồn gốc của bệnh Sida, nó đến khi một người bị bát phong kiềm chế. Khi gặp người bị sida truyền do tình dục, tôi hỏi họ về trạng thái tinh thần như thế nào khi họ bắt đầu có triệu chứng bị bệnh, một số người trả lời rằng họ có ham muốn tình dục mãnh liệt. Trong suốt thời gian có trạng thái tinh thần phi đạo đức đó, họ bắt đầu bị sốt cao, toát mồ hôi và mệt lã từng ngày.

Về cơ bản, tất cả bệnh tật, kể cả sida, ung thư, đến từ suy nghĩ bát phong. Các vấn đề do giao tiếp trong cộng đồng cũng vậy: nếu một người không cố gắng tự kiềm chế, thì các vấn đề phát sinh do giao tiếp, bằng cách này hay cách khác, có thể xảy ra liên tục. Cuộc sống sẽ như địa ngục. Trước khi tái sinh ở địa ngục thật, người đó phải chịu đựng địa ngục ở cõi người này. Có địa ngục ở khắp mười phương. Bạn hoàn toàn cảm thấy như bị nhốt trong bẫy, bị ngộp thở. Thậm chí bạn không thể thở.

Khi ham muốn của bạn không được thoải mãn, khi bạn không thể có được những gì bạn muốn thì đó là lúc thần kinh suy sụp và ý định tự tử sẽ xuất hiện. Mới gần đây một người đệ tử ở Thụy Sĩ đã gặp phải những vấn đề như vậy và đã tự tử. Ông ta tự treo cổ. Tôi cho rằng ông ta có nghe Pháp nhưng không nhập thất hay không thực hành được nhiều. Ông ta có việc làm tốt, kiếm nhiều tiền nhưng ông ta đã có những vấn đề về giao tiếp (quan hệ với người khác bị tồi tệ-ND)

Bạn có thể đã có nhiều lần nghĩ đến việc tự tử, nghĩ đến việc kết thúc đời bạn do bởi các loại vấn đề như thế này. Về cơ bản, đây là nhược điểm của bát phong, của ham muốn. Kadampa geshe Gonpawa, người đã có được khả năng thấy biết siêu việt và nhiều thực chứng  khác nữa, đã nói:

Nếu một người nhận được bốn điều ưa thích (trong bát phong) là: được (lợi), sướng, khen, vinh, từ một hành động đươc làm bỡi những suy nghĩ bát phong thì đó chỉ là quả trong đời này mà thôi và sẽ không có lợi lạc gì cho các đời sau. Và nếu bốn điều không ưa đến từ một hành động thì sẽ không có lợi lạc gì ngay cả trong đời này.

Thường thì những hành động từ suy nghĩ bát phong dù có mang lại bốn điều ưa thích thì rốt cuộc cũng sẽ đưa tới bốn điều không ưa thích. Chẳng hạn trong kinh doanh bạn thành đạt từ thành công này tới thành công khác; và vì được thành công bạn sẽ đầu tư kinh doanh nhiều thêm với những suy nghĩ bát phong. Sau một thời gian khi nghiệp lực thành công của bạn kết thúc và nghiệp lực thất bại xảy ra chỉ trong một ngày bạn có thể trở thành kẻ ăn mày. Ngày nay bạn là triệu phú nhưng ngày mai bạn có thể bị khánh kiệt, không biết lấy gì trả tiền nhà hay trang trải cho gia đình. Toàn bộ cuộc đời bạn sụp đổ.

Điều này xảy đến vì để cho suy nghĩ bát phong thúc đẩy hành động. Cho dù bạn sống sung túc nhưng bạn không thoả mãn và bạn lại tiếp tục hành động vì suy nghĩ bát phong. Do đã thành công trong quá khứ, vào một ngày nghiệp lực thành công của bạn cạn kiệt và mọi sự sụp đổ. Có người hôm qua rất giàu có, chẳng phải lo lắng tiền bạc, bất ngờ hôm nay phải lo toan đến việc nhỏ nhất là không biết tiền đâu để nuôi gia đình. Ông ta không thể làm gì, không thể ăn ngủ được.

Ngay cả khi một kẻ ăn cắp đã lấy trộm một, hai, ba lần chẳng hạn, nhưng sự thành công của ông ta không thể tiếp tục mãi được. Bạn cần phải tự kiềm chế ham muốn của mình; bạn cần phải tìm thấy được một mức thoả mãn nào đó. Nếu không dừng, nếu tiếp tục nữa, thì có ngày bạn sẽ thất bại. Bất luận sai lầm gì, nếu cứ tiếp tục tái diễn, chắc chắn ngày nào đó nó sẽ trở thành một vấn đề to lớn. Một nhược điểm khác nữa của ham muốn là cuối cùng sẽ đưa tới chỗ rất ư  thất vọng.

Tự giải thoát mình khỏi ham muốn là một sự bảo vệ chắc chắn nhất. Khi dứt bỏ ham muốn một đối tượng hay một người, lúc đó tất cả suy nghĩ bất thiện sẽ không nổi lên được và kết quả là bạn sẽ không tạo ra nghiệp xấu. Và nó cung cấp sự bảo vệ tốt ngoài sức tưởng tượng. Thông thường, vì đam mê một đối tượng đặc biệt, bạn tạo ra rất nhiều nghiệp bất thiện liên hệ đến nhiều chúng sanh hữu tình khác. Dứt bỏ được đam mê đó bạn sẽ ngăn chận được nhân tái sinh vào  các đọa xứ.

Sự an lạc to lớn sẽ đến khi bạn giải thoát mình khỏi suy nghĩ về ham muốn. Hãy tập trung vào sự an lạc chân thật này mà bạn có thể kinh nghiệm được ngay lập tức bằng cách tự giải thoát mình khỏi ham muốn. Khi tập trung chú tâm vào sự an lạc này thì sẽ không có vấn đề nào xảy ra. Khi nỗ lực để có được hạnh phúc to lớn này, sự an lạc chân thật này, thì hạnh phúc tạm thời trở nên không hấp dẫn nữa và bạn sẽ từ bỏ nó dễ dàng - y như vứt giấy đã dùng ở trong phòng vệ sinh. Khi thấy biết được như vậy thì không gì đáng lo nếu bạn gặp phải chuyện  không vừa ý.

Cho nên như chúng ta thấy, dù có nhiều hay ít vấn đề đi nữa thì chúng ta cũng phải thực hành Pháp, không cách nào khác hơn. Và tu tập Pháp có nghĩa là kiểm soát tâm, kiềm chế ham muốn. Không nói chi đến việc sống khổ hạnh theo sự tu tập Pháp đích thực, nhưng ít nhất để có được sự bình an trong tâm và hạnh phúc đời này cũng như ngăn cản những vấn đề tăng thêm, chúng ta cần kiểm soát ham muốn. 

Chấm dứt luân hồi 

Như Ngài Long Thọ có nói:

Các hành động phát sinh bởi tham, sân, si là phi đạo đức. Các hành động phát sinh bởi không tham, không sân, không si là đạo đức. Dù đạo đức hay phi đạo đức, hành động đều do tâm mà có.

Chừng nào chúng ta còn ham muốn sống tiện nghi sung túc, mong được lợi, mong được kính trọng, được danh tiếng, và chừng nào chúng ta ngại sống thiếu thốn, sợ bị thiệt hại, sợ bị khinh rẻ, bị tiếng xấu thì mọi hành động của chúng ta đều bị thúc đẩy bởi tham, sân, si. Điều này có nghĩa là sẽ có nhiều hành động xấu hơn tốt.

Ở đây luận giảng có nói:

Điều rất ư quan trọng là cố gắng đừng để phát sinh ham muốn sống sung sướng ở cuộc đời này. Nếu ham muốn này nổi lên thì cố gắng từ bỏ nó.

Ngài Lama Atisha cũng có nói:

Nếu gốc cây là độc thì cành và lá cũng độc. Nếu gốc có dược tính trị bệnh thì cành và lá cũng là dược liệu. Cũng giống như vậy, mọi việc được làm với tham, sân, si thì là phi đạo đức.

Nói cách khác, bất kỳ hành động nào - làm ruộng, kinh doanh, đi lính, giúp bạn bè bà con, làm thầy thuốc - được làm với sự suy nghĩ bát phong, bám chặt cuộc sống này và bị thúc đẩy bởi tham, sân, si thì-như được nói ở đây- "chỉ là nhân cho luân hồi và đọa xứ".

Luận giảng nói tiếp:

Để nắm bắt được cái tinh hoa, thì ngay từ lúc bắt đầu ngừơi ta đừng nên bám chặt vào cuộc đời này.

"Nắm được cái tinh hoa" ở đây đề cập tới thân làm người hoàn chỉnh này.

Sau đây là một đoạn trích từ giáo lý Tantra, thường được coi như là một động cơ kích họat trong phần chuẩn bị cho một lễ quán đảnh Tantra:

Những ai có quyết tâm lớn hiến dâng đời cho tu tập, tìm kiếm sự giải thoát khỏi luân hồi thì được phép vào mạn đà la (thế giới quan của Tantra thừa). Người đó chẳng cần ham muốn các quả của đời này.

Câu cuối của đoạn văn ý nói rằng người đó chẳng quan tâm đến sướng, được, khen, vinh, vân vân… tức là không ham muốn toàn bộ những chuyện  ở đời.

Đoạn trích dẫn tiếp tục như sau:

Người nào còn ham muốn cuộc sống này sẽ không có được kinh nghiệm thoát khỏi luân hồi.

Câu này có nghĩa là các việc làm của người đó có sự ham muốn cuộc sống này sẽ không trở thành nhân của giác ngộ, tức là trạng thái thoát khỏi luân hồi.

Bạn có thể hiểu điều này như sau : nếu mục đích của bạn là đạt hạnh phúc chỉ trong đời này, nếu đó là những gì bạn ham muốn thì mọi việc như làm việc, tụng lời cầu nguyện, dự lễ quán đảnh, ăn, ngủ vân vân … đều không trở thành Pháp thiêng liêng. Tất cả những hoạt động đó đều phi đạo đức. Hy vọng của bạn là được hạnh phúc, nhưng điều duy nhất mà thực tế bạn nhận được từ những hành động đó chỉ là đau khổ. Mặc dù bạn làm việc để mưu cầu đạt hạnh phúc trong đời này nhưng trên thực tế các hành động của bạn trở thành chướng ngại ngăn cản hạnh phúc, khiến bạn không tìm thấy được hạnh phúc. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi chúng ta nhìn vào kinh nghiệm của cuộc sống mình và của những người khác. Đoạn trích dẫn kết thúc như sau:

Tìm kiếm sự giải thoát khỏi luân hồi sẽ gia tăng hạnh phúc của kiếp sống luân hồi này.

Câu này có ý nghĩa rằng những ai chỉ tìm kiếm sự Giác Ngộ tức là vượt khỏi luân hồi và tu tập Pháp để đạt được như vậy thì dù không có ý định tìm kiếm hạnh phúc của đời này cũng sẽ tự nhiên có được nó.

Trong bức thư gởi cho bạn ngài Long Thọ có nói:

Nếu một đóm lửa rơi trên tóc hay quần áo của bạn và có nguy cơ bị cháy bỏng thì bạn lập tức gạt bỏ đóm lửa đó đi. Và cũng như vậy, việc đáng phải làm là cố gắng không tái sanh.

Khi đóm lửa rơi trên người bạn, bạn sẽ gạt bỏ nó ngay lập tức. Bạn sẽ làm tức thì dù đóm lửa chỉ cháy chút xíu tóc hay quần áo. Cũng như vậy, bạn phải có quyết tâm hơn nhiều trong việc cố gắng loại bỏ nhân để tái sanh vào các cõi thấp và chịu đau khổ liên tục trong luân hồi. Tất cả vấn đề sẽ có khả năng xảy ra vì chúng ta đã tái sinh kiếp này; các uẩn này (tái sinh này- ND) được gây ra bởi vọng tưởng và nghiệp và bị ô nhiễm bởi chủng tử của vọng tưởng. Vì chúng ta đã tái sinh, chúng ta kinh qua khổ hành và vì khổ hành, chúng ta kinh qua  khổ hoại và khổ khổ. Không chỉ chúng ta kinh qua các loại khổ trong đời này mà kiếp luân hồi hiện tại này sẽ là nền tảng cho tất cả kiếp luân hồi ở các đời sau và cho tất cả khổ đau của các kiếp tái sinh. Sống một kiếp luân hồi sẽ tạo nên nhân của rất nhiều kiếp luân hồi trong các đời tương lai. Diễn biến này cứ thế mà tiếp tục.

Ngài Long Thọ nói rằng tình thế này nghiêm trọng hơn là có đóm lửa rơi trên người, rằng chúng ta phải cố gắng đừng tái sanh nữa. Như đã nêu trong các giáo lý, tham là dây xích buộc chúng ta vào cõi luân hồi; tham là nhân gần nhất của cõi luân hồi các kiếp sau. Không chỉ tham khiến cho chúng ta tạo nghiệp bất thiện ngay đây trong đời này, nhưng khi biết là sắp chết, tham cũng còn khiến cho chúng ta không muốn rời bỏ thân ta, các uẩn của ta. Tham và không muốn rời bỏ, hai thứ tâm này ngay vào lúc chết sẽ dẫn dắt chúng ta nhận một tái sanh luân hồi nhất định nào đó của kiếp sau. Vì tham là nhân chính của luân hồi nên việc cắt đứt tham trở thành phép tu tập Pháp chủ yếu để khỏi tái sinh nữa. Đây là phương pháp để cắt đứt dòng tương tục luân hồi.

Để kết luận, tất cả các hành giả tu tập Pháp phải từ bỏ ham muốn sống sung túc tiện nghi. Nếu không từ bỏ điều này bạn không thể nào là "một hành giả tu tập". Mọi sự được làm với lòng ham muốn sống sung túc thì không phải là Pháp, chừng nào còn có ham muốn thì không có sự tu tập Pháp. Có câu tục ngữ Tây tạng nói: Vì con ngựa không có bản tính của con sư tử nên không thể gọi con ngựa là con sư tử.

Lama Gyampa, một geshe Kadampa có nói:

Từ bỏ cuộc đời này là khởi điểm đích thực của Pháp. Nếu không, thì coi như không tu tập Pháp tí nào cả nhưng lại cảm thấy hãnh diện là một hành giả của Pháp-thật nực cười ! Hãy kiểm tra xem dòng tương tục tâm thức của bạn có chứa khởi điểm đích thực của Pháp tức là từ bỏ cuộc đời này hay không.

Ngay cả khi bạn cho rằng bạn không phải người có tín ngưỡng tôn giáo nhưng vì bạn không muốn có những vấn đề xảy ra cho bạn, bạn muốn có hạnh phúc thì bạn vẫn phải kiểm soát ham muốn. Không còn có giải pháp nào khác nữa. Bạn không thể làm giảm ham muốn và những vọng tưởng khác bằng cách xử dụng dược phẩm hay giải phẫu hay bằng những phương tiện khách quan khác. Phương pháp duy nhất là nghĩ tới nhược điểm của ham muốn và nghĩ rằng cuộc đời ngắn ngủi. Đây là một phương pháp tâm lý học cốt yếu dù bạn không là Phật tử và không muốn mình thành Phật. Không có giải pháp khác. Để giảm bớt các vấn đề xảy ra trong đời, bạn phải soi xét các nhược điểm của ham muốn. Nếu ham muốn được loại bỏ thì các vấn đề không còn tồn tại nữa. Chừng nào bạn buông bỏ được ham muốn, bạn sẽ không gặp phải vấn đề nào thêm nữa.

Tu tập bồ đề tâm giúp kiểm soát ham muốn. Hoán đổi mình với người khác - có nghĩa là quên mình và quan tâm chăm sóc người khác (xem chương 9), hay có lòng tốt muốn giúp người khác loại bỏ khổ đau - sẽ giải quyết được nhiều vấn đề.

Một người mà tâm không đủ mạnh để thực hành bồ đề tâm thì có thể ngăn chận ham muốn bằng sự thiền định về lợi ích của thân người hoàn chỉnh và đặc biệt là sự vô thường và chết (xem chương 7). Bạn có thể chấm dứt ham muốn bằng sự suy nghĩ rằng cuộc đời ngắn ngủi, cái chết có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, và nghĩ đến đọa xứ, nghĩ đến nghiệp quả vân vân.

Như tôi đã nêu ở trước, "bí mật của tâm" mà Shantideva đề cập là không phải nói tới chứng ngộ đặt biệt nào cả. Bí mật của tâm có nghĩa là việc nhận biết nhựơc điểm của bát phong, suy ngẫm đến tính vô thường và cái chết. Thiền định về vô thường và chết, nhận ra được những nhược điểm của ham muốn - có nghĩa thấy được rằng tất cả các vấn đề, các phiền não nổi lên từ ham muốn - sẽ giúp cho bạn có sức mạnh để quyết tâm từ bỏ cuộc đời này, để cắt đứt sự trói buộc vào cuộc đời này. Hai điều này sẽ làm cho bạn có quyết tâm mạnh mẽ và làm suy yếu bát phong. Chúng cho bạn sức mạnh để cắt đứt sự trói buộc vào cuộc đời này, giải thoát bạn khỏi ham muốn.

Nếu bạn không nhận thức được những bí mật này của tâm, thì dù cho bạn muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ, bạn vẫn kinh qua đau khổ và không đạt hạnh phúc. Bạn lang thang trong luân hồi, không ngừng kinh qua đau khổ, không có được hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu bạn nhận thức được những bí mật này của tâm, chỗ tối thượng của Pháp, bạn sẽ có khả năng đạt hạnh phúc, loại bỏ đau khổ và sẽ không lang thang vô định trong luân hồi.

Điều tối quan  trọng là bạn hãy có một động cơ (tâm nguyện) đúng đắn bất luận đó là hành động gì. Cho dù bạn là một nông dân hay một thiền sư nhưng nếu bạn hành động để nhằm đáp ứng sự ham muốn được vui sướng hay nổi tiếng thì bạn không khác gì súc sinh.

Khi tôi hỏi một tu viện trưởng "pháp thế gian" là gì, ông ta trả lời đó là việc đánh bạc, cày ruộng và vân vân. Cách suy nghĩ về hành động thế gian như thế này rất phổ biến, chỉ để ý tới hoạt động mà không để ý tới động cơ hay thái độ. Tuy nhiên, nếu được làm với một động cơ thanh tịnh thì những hoạt động như đánh bạc cày ruộng có thể trở nên Pháp thanh tịnh.

Không có một hành động nào tự bản thân nó được xác định trước là hành động thế gian. Nó có thể là một hành động Pháp thiêng liêng hoặc là một pháp thế gian, tức là đạo đức hoặc phi đạo đức - nó có thể là cái này hoặc cái kia. Chỉ khi nào biết được động cơ của nó bạn mới có thể nói nó là một Pháp thiêng liêng hay một pháp thế gian bất luận đó là công việc đồng áng hay việc thực hành thiền định.

Trong Giải thoát Trong lòng Bàn tay, ngài Pabongka Dechen Nyingpo đưa ra ví dụ sau: có bốn người trì tụng lời cầu nguyện Tara. Người thứ nhất tụng lời cầu nguyện với động cơ mong đạt giác ngộ vì lợi lạc chúng sanh hữu tình, người thứ hai với mong muốn đạt giải thoát cho riêng bản thân, người thứ ba mong được hạnh phúc đời sau và người thứ tư chỉ mong tìm kiếm hạnh phúc ngay trong đời này.

Hành động trì tụng của người thứ nhất trở thành nhân của giác ngộ. Hành động trì tụng của người thứ hai không trở thành nhân cho giác ngộ vì được làm với động cơ muốn giải thoát cho riêng mình. Hành động này sẽ là nhân dành riêng cho sự giải thoát, tức là thoát khỏi luân hồi nhưng không là nhân cho giác ngộ - vì giác ngộ là trạng thái tâm linh thoát khỏi tất cả lỗi lầm, viên mãn mọi chứng ngộ, mọi đức hạnh.

Việc trì tụng của người thứ ba không trở thành nhân của giác ngộ, cũng không trở thành nhân cho giải thoát. Vì động cơ là đạt tới hạnh phúc các kiếp sau, nên nó chỉ là nhân hạnh phúc trong luân hồi, sẽ có thể tái sanh ở cõi trời hay cõi người .

Hành động trì tụng của ba người này là hành động Pháp thiêng liêng. Nhưng hành động trì tụng của người thứ tư không phải là Pháp thiêng liêng. Đó là pháp thế gian bởi vì nó được làm với sự quan tâm đến thế gian, dính chặt vào cuộc đời này. Động cơ của nó là phi đạo đức. Như tôi đã đề cập trước đây, các hành động được làm do bát phong, do tham ái, dính chặt vào hạnh phúc đời này đều là phi đạo đức và quả là tái sanh vào địa ngục, ngã quỉ hay súc sanh. Cho nên, mặc dù lời cầu nguyện tự bản thân là Pháp nhưng hành động của người trì tụng có thể không là Pháp thiêng liêng.

Ngài Pabongka Dechen Nyingpo dùng hành động trì tụng lời cầu nguyện như một ví dụ để làm sáng tỏ sự nhầm lẫn thông thường. Rất dễ nhầm lẫn rằng một hành động nào có liên quan đến Pháp chẳng hạn như tụng kinh, đọc lời cầu nguyện, hay Thiền định đều là một hành động Pháp. Thật quá dễ tin như vậy.

Nếu hành động tụng kinh và cầu nguyện với động cơ là sự quan tâm đến thế gian mà có thể mang đến thành công, nếu nó có thể trở nên nhân của hạnh phúc thì có thể nói đi cướp ngân hàng cũng có thể là nhân của hạnh phúc. Bằng việc cướp ngân hàng người ta có thể trở nên giàu sang, sống hạnh phúc. Vậy ăn cướp có gây nên hạnh phúc không? Có sự tương tự nào đấy giữa hai thí dụ này. Nếu nói một hành động phi đạo đức như ăn cướp (được làm vì ích kỷ, tham lam, sân hận hay vô minh) là nhân của hạnh phúc thì bạn cũng có thể có hạnh phúc từ việc phi đạo đức. Ý tưởng sai lầm này tự nhiên nẩy sinh.

Chỉ có những hành động nào không những không bị thúc đẩy bởi bát phong, mà còn chống lại chúng, mới trở thành Pháp. Từ sớm tới khuya, bất cứ hành động nào như ngủ, ăn, ngồi, đi lại, nói chuyện vân vân nếu được làm để chữa trị vọng tưởng thì nó trở thành Pháp. Ngược lại những hành động nào đáp ứng cho bát phong, cho tham ái bám chặt cuộc đời này thì sẽ trở thành pháp thế gian, hay còn gọi là phi đạo đức. Chúng nó không thể trở thành Pháp thiêng liêng được.

Như đại Bồ Tát Shantideva có nói trong Bồ Tát Hạnh:

Mặc dù ai cũng mong ước đạt hạnh phúc và chấm dứt khổ đau nhưng vì không biết được bí mật của tâm, ý nghĩa tối thượng của Pháp, nên chúng sinh vẫn mãi luân hồi một cách vô ích.

Ở đây "bí mật của tâm" không ám chỉ những thực chứng cao cấp như là tịnh quang, thân huyễn hay sự hợp nhất của chúng; "bí mật của tâm" cũng không nói về cái gì quá phức tạp. Chúng ta có thể hiểu "bí mật của tâm" là các mức độ khác nhau thuộc động cơ của tâm. Đoạn văn này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc canh chừng tâm, gìn giữ  tâm  được đạo đức bởi vì hạnh phúc hay khổ đau tùy thuộc vào tâm của ta, tức là những suy nghĩ của ta là thiện hay bất thiện. Cách suy nghĩ như thế này sẽ đưa tới hạnh phúc. Cách suy nghĩ như thế kia sẽ đưa tới đau khổ và hàng loạt vấn đề. Tất cả - từ những vấn đề hằng ngày và những khổ đau của sáu cõi luân hồi cho tới sự giải thoát, giác ngộ, tất cả đều tùy thuộc vào tâm của chúng ta, cách suy nghĩ của chúng ta.

Bạn có thể không để ý tới bí mật này của tâm: cách suy nghĩ và thái độ của bạn - mà từ đó xuất phát mọi hạnh phúc và khổ đau. Biết được bí mật này, bạn có thể loại bỏ những suy nghĩ sai lệch sản sinh các vấn đề, toàn bộ khổ đau ở các kiếp sau, toàn bộ chướng ngại ngăn cản giác ngộ. Với cách suy nghĩ đúng bạn có khả năng có được bất kỳ hạnh phúc nào bạn muốn. 

Hai người ăn xin 

Một đoạn văn khác trích từ Khai mở Cánh cửa Pháp như sau:

Trước khi có các hành động Pháp, khả năng của tâm (có nghĩa là động cơ, là tâm nguyện) là quan trọng nhất. Nếu một người nói hay làm với một tâm bất thiện, người ấy sẽ chuốc lấy khổ đau từ hành động đó như trong thí dụ về một người bị bánh xe cắt lìa đầu. Còn nếu một người nói hay làm với một tâm an lành, người ấy sẽ nhận được hạnh phúc từ hành động đó như thí dụ về cái bóng di chuyển.

Đoạn văn có ý nói rằng người ta nhận lấy đau khổ từ những hành động được làm với ba tâm độc.

Các thí dụ nêu trên liên quan đến câu chuyện sau đây do đức Song Rinpoche kể. Hai người ăn xin đi riêng rẽ đến xin ăn ở một tu viện. Một người đến lúc chiều tối khi các tăng dọn dẹp bếp xong nên ông ta không có được thức ăn. Người ăn xin thứ hai đến tu viện vào buổi trưa lúc các tăng đang dùng cơm nên ông ta xin được rất nhiều thức ăn.

Người không xin được thức ăn đã nổi giận. Ông ta bực tức nói: "Tôi ước gì cắt đứt đầu các sư và xem các đầu đó rớt xuống đất". Chẳng bao lâu sau, khi ông ta nằm bên lề đường, một chiếc xe ngựa chạy qua đã cán lên người ông và cắt lìa đầu ông.

Còn người ăn xin kia khi nhận được nhiều thức ăn đã rất sung sướng. Biết ơn các sư tăng, ông ta nói: "Tôi ước gì có thể dâng cúng nước cam lồ của thiên nhân cho các sư". Lòng ước muốn này đã sản sinh rất nhiều công đức trong tâm ông ta. Sau đó ông ta đến nằm ở một công viên dưới một gốc cây.Từ xế đến chiều, bóng cây không rời ông ta. Vào dịp này dân địa phương đang cần tìm một người có phẩm hạnh đặc biệt để tôn làm tân vương. Khi thấy người ăn xin lúc nào cũng được bóng cây che mát, họ đã khẩn cầu người này làm vua.

Có ba loại nghiệp (xét lúc nghiệp đã chín muồi):

Nghiệp mà bạn tạo ra và nhận lấy quả ngay trong một đời; nghiệp mà bạn tạo ra trong đời này nhưng nhận lấy quả ở ngay kiếp sau; và nghiệp mà bạn tạo ra ở đời này nhưng sẽ nhận quả sau nhiều kiếp tái sanh. Mặc dù người ăn xin trên thực tế đã không cúng dường nước cam lồ, ông ta chỉ ước muốn mà thôi nhưng tăng đoàn có năng lực rất mạnh vì đã thực hiện rất nhiều giới hạnh nên người ăn xin đã tích lũy được công đức to lớn. Do vậy ông ta nhận được quả ngay trong cùng một đời. 

Vị thuyền trưởng Bồ tát 

Có câu chuyện khác nữa. Thông thường giết người là ác nghiệp. Thế nhưng, trong một kiếp quá khứ, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã giết một người. Vào kiếp đó, Ngài là vị thuyền trưởng của một chiếc thuyền đang chở năm trăm lái buôn và một người trong số đó có âm mưu giết tất cả những người kia. Biết được việc này, và vì nghĩ rằng nếu xảy ra chuyện, kẻ giết người ắt phải đi vào địa ngục và phải chịu đựng khổ đau trong rất nhiều đại kiếp, vị thuyền trưởng liền cảm thấy quá bi mẫn xót thương ông ta tới mức không chịu nổi. Ngài nghĩ : "Tôi sẽ vào địa ngục chịu thay cho ông ta. Tôi sẽ giết ông ta trước khi ông ta có cơ hội giết người. Cho dù việc giết ông ta sẽ đưa tôi vào địa ngục nhưng tôi vẫn phải làm". Vì lòng bi mẫn xót thương quá mức, vị thuyền trưởng đã giết người lái buôn đó.

Tuy nhiên, nhờ vào động cơ đại bi này, hành động giết người đã không trở thành nghiệp ác. Thay vì vậy, nó trở nên phương tiện tích lũy công đức rất đặc biệt và rút ngắn một trăm ngàn đại kiếp ở luân hồi. Kinh điển ở đây nói rất rõ rằng hành động này đã không trở thành nghiệp ác -mặc dù đôi khi việc này bị tranh cãi. Một số người thấy rất khó chấp nhận rằng việc giết người là đạo đức dù được thúc đẩy bởi lòng đại bi. Họ phản bác rằng động cơ là đạo đức nhưng hành động tự nó là phi đạo đức nên vị thuyền trưởng Bồ tát ắt phải chịu một quả bất thiện nào đó vì điều này. Một số tu sĩ đã phản bác như vậy trong luận giảng của Tiểu thừa, nhưng Kinh Đại thừa nói rất rõ rằng hành động của vị thuyền trưởng là không phải nghiệp ác.

Luận giảng Tiểu thừa đã khẳng định rằng ba hành động của thân (sát sanh, trộm cắp, tà dâm) và bốn hành động của lời nói (nói láo, nói vu khống, nói thêu dệt, nói lời độc ác) là ác nghiệp. Không cho phép được làm những hành động này vì luận giảng Tiểu thừa chú trọng hành động hơn thái độ. Tuy nhiên trong giáo lý Đại thừa, Đức Phật đã cho phép làm những hành động này vì khi đó Bồ tát biết chắc chắn sẽ mang lợi lạc to lớn đến chúng sanh hữu tình.

Đức Phật cho phép việc này bởi vì sẽ không có nguy hiểm cho một vị Bồ tát về phương diện phát triển tâm. Hành động như vậy của vị Bồ tát sẽ không trở thành chướng ngại ngăn trở giác ngộ; thay vào đó, trên thực tế nó giúp vị Bồ tát đạt giác ngộ nhanh hơn. Khi có lợi ích lớn và đặc biệt khi không có nguy hiểm thì Đức Phật cho phép làm những hành động như vậy.

Tiểu thừa là nền tảng của Đại thừa nhưng giáo lý Tiểu thừa không đề cập bồ đề tâm như đã triển khai trong Đại thừa. Trong Đại thừa, tâm của vị Bồ tát có thể khiến cho hành động phi đạo đức trở thành đạo đức. Trong việc phát triển tâm, trước hết bạn chuyển hóa tâm vô ký (không phân biệt) thành tâm đạo đức; rồi thì, nhờ phát sinh và từng bứơc tăng trưởng bồ đề tâm, sau một giai đoạn nào đó, bạn sẽ đạt tiến bộ ở mức đủ để có khả năng chuyển hóa ngay cả phi đạo đức thành ra đạo đức. Bồ đề tâm có khả năng khiến cho bạn làm được điều này.

Trong tác phẩm Giải thoát trong Lòng Bàn tay Pabongka Dechen Nyingpo giải thích rằng hành động giết người của vị thuyền trưởng đã "tích lũy rất nhiều công đức" và ở đây trong luận giảng này sự việc đã được làm sáng tỏ hơn thế nữa: "Hành động giết người này đã không trở thành nghiệp bất thiện mà ngược lại nó là một phương pháp đặc biệt để làm cho công đức được trọn vẹn". Nhiều giáo lý khác cũng đồng ý với điều này và ngay cả theo quan điểm thế gian nó cũng hợp lý nữa.

Luận giảng cũng giải thích tiếp:

Nếu bạn cho ai thức ăn, thức uống với mục đích trêu chọc hay tạo ra phiền phức thì sự bất hạnh sẽ đến thay vì sự hạnh phúc.

Nói cách khác câu này nói việc bạn cho thức ăn thức uống với động cơ xấu là làm hại họ, gây rắc rối cho họ. Ở đây mặc dù hành động trông có vẻ tốt nhưng trên thực tế kết quả trở nên bất thiện - bất hạnh trong đời này và khổ đau trong các kiếp sau - bởi vì động cơ là bất thiện. Điều này ngược lại với thí dụ về vị thuyền trưởng Bồ tát, hành động giết người không trở thành nghiệp bất thiện, thay vì vậy, nó trở thành phương tiện để tích luỹ công đức.

Luận giảng tiếp tục như sau:

Nếu một người cho hay tặng với sự tôn kính, sự sùng mộ cùng với lòng Đại Bi vân vân… thì sẽ có hỉ lạc ở cả người cho và người nhận. Và đại hỉ lạc sau này cũng sẽ đến từ nghiệp này. Do đó mọi sự tuỳ thuộc vào tâm. Hạnh phúc, khổ đau, nghiệp thiện, nghiệp bất thiện: mọi sự xảy ra tùy theo các tâm khác nhau.

Nói cách khác, mọi sự xảy ra tùy theo tâm của chính bạn, tuỳ theo động cơ, cách suy nghĩ của bạn. Trong một luận giảng về Lamrim, Lama Tsong Khapa nói rằng trừ những trường hợp ngoại lệ thì  hành động( trong đời thường-ND) trở thành nhân cho luân hồi, nhân cho khổ đau trừ phi nó được thúc đẩy bởi một trong ba mặt căn bản của đường đạo. Các hành động ngoại lệ, không tùy thuộc vào động cơ, là những hành động liên quan đến các đối tượng thiêng liêng như Đức Phật, Pháp và Tăng đoàn. Cúng dường cho các đối tượng thiêng liêng này, ngay cả với động cơ của bát phong cũng đưa đến quả hạnh phúc.

Kinh điển nói rằng "Thế giới được dẫn dắt bởi tâm". Điều này có nghĩa rằng tâm là nhà sản xuất, người kiến tạo thế giới. Như đã nói, hạnh phúc phát sinh từ tâm đạo đức. Mọi quả tốt - thân người hay thiên nhân ở thượng giới, những trần cảnh ưa thích… tất cả đều phát sinh từ tâm đạo đức. Bằng cách tu tập bồ đề tâm, hành giả có khả năng phát triển toàn bộ phần còn lại của con đường Đại thừa, các chứng ngộ Tantra và giác ngộ. Toàn bộ những điều này có được từ bồ đề tâm.

Toàn bộ mọi khổ đau được dẫn dắt bởi tâm phi đạo đức. Toàn bộ những hoàn cảnh xấu - sinh làm các chúng sinh luân hồi đau khổ, các cõi thấp -đều phát sinh từ  tâm phi đạo đức.

Mọi sự đến từ tâm, nhưng tâm không hình tướng. Kinh nói tiếp: "Tâm không thấy được tâm". Tôi nghĩ câu này có nghĩa là: vì tâm không có hình tướng, không màu sắc nên chúng ta không thể thấy được, không cảm giác được nó theo kiểu chúng ta thấy và cảm giác về thân ta và các đối tượng khác. Tâm chúng ta và các vọng tưởng của chúng ta là không hình tướng, không màu sắc. Nhưng vô-minh-chấp-thấy-hiện-hữu-chắc-thật (chắc chắn có thật) của chúng ta thì còn cứng chắc hơn dãy núi đá. Các vọng tưởng của chúng ta cứng hơn thép.

Núi đá và thép có sinh và có diệt. Núi và thép có thể bị hủy hoại bởi các nguyên nhân bên ngoài chẳng hạn như lửa vào cuối đại kiếp hay sức nóng của bảy mặt trời.

Tuy nhiên, các vọng tưởng vô minh của chúng ta thì liên tục từ vô thỉ (không có chỗ bắt đầu - ND). Vô minh của chúng ta là vô thỉ tuy nhiên đến giờ vẫn không thay đổi. Điều này thật đáng ngạc nhiên. Và vọng tưởng của chúng ta sẽ vô chung (không chấm dứt - ND) trừ phi chúng ta luyện tâm và làm cho đường đạo trở thành hiện thực. Nếu chúng ta triển khai được cách thức tu sửa do đường đạo chỉ ra thì chúng ta có thể chấm dứt vọng tưởng. Đoạn trích dẫn từ Kinh, kết thúc như sau: "Bất kể hành động đạo đức hay phi đạo đức đều do tâm tạo". 

Chuyển phi đạo đức thành đạo đức 

Aryadeva kể một câu chuyện về một vị Arhat (A-la-hán) đang bị đau quá mức và yêu cầu vị tăng là đệ tử của Ngài hãy làm cho Ngài chết ngạt. Người đệ tử vâng lời đã làm cho Ngài chết. Sau đó, ông ta đến gặp Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và hỏi về nghiệp của mình. Đức Phật nói rằng bởi vì hành động được làm bởi động cơ tốt, nên không thể tạo ra nghiệp giết vị Arhat - nghiệp giết Arhat là một trong nghiệp ngũ nghịch bất tận.  Hành động được làm với một tâm tốt bỡi vì khi đó vị Arhat đang bị đau quá mức ; Đức Phật nói nó không trở thành nghiệp ngũ nghịch bất tận mà trở thành đạo đức.

Tuy nhiên, đối với việc giết chúng sanh với lý do muốn giải thoát đau khổ thì có một khía cạnh khác cần phải lưu ý xem xét. Nếu một người hay một súc sanh sắp sửa tái sinh vào địa ngục thì nỗi đau đang chịu đựng ở cõi người không thấm vào đâu so với nỗi đau ở địa ngục, nên có thể tốt hơn nếu để họ chịu đựng thêm một ngày nữa ở cõi người nơi mà sự đau khổ có  ít hơn. Nhưng nếu chúng sanh sắp tái sinh vào cõi cao hơn như cõi trời hay cõi người thì đây chỉ là sự thay đổi cái thân. Cho nên việc này cần có khả năng hiểu thấu suốt vấn đề. Thực ra, chúng ta cần có khả năng siêu việt để có một quyết định như vậy.

Sát hại chúng sanh như vậy có thể trở thành đạo đức bởi vì nó được làm với tâm thiện; nhưng xét đến cõi tái sinh xem có thể là cõi thấp hay cõi cao thì có sự chọn lựa khác biệt cho chúng sanh bị giết. Đây là lý do tại sao Ngọn đèn Soi đường đến Giác ngộ có nói rằng thật khó khăn để làm lợi cho chúng sinh một khi không có được khả năng siêu việt.

Có một câu chuyện nữa về một tu sĩ già có người con trai cũng là tu sĩ trong cùng một tu viện. Vào ngày nọ, tu viện đánh chuông báo cho biết đến giờ sám hối. Nghe tiếng chuông, tu sĩ trẻ bảo cha đi nhanh hơn. Vì đi gấp bất ngờ tu sĩ già đột quị chết tại chỗ. Sau đó tu sĩ trẻ đến tham vấn Đức Phật; và Đức Phật nói rằng vì hành động được làm bởi tâm thiện nên không thể trở thành một nghiệp ngũ nghịch bất tận là giết cha.

Aryadiva cũng nêu ra một thí dụ khác: một người trông thấy tượng Phật để ngoài trời đang mưa nên đã lấy đôi giày của mình đặt trên đầu tượng để che mưa. Sau khi dứt mưa có một người khác đi ngang qua thấy thế, nói: "Thật tệ khi đặt đôi giày lên trên tượng Phật" và ông ta đã lấy giày xuống. Cả hai người này đã tạo được nhân để tái sanh làm Chuyển-luân-Vương. Tại sao? Bởi vì các hành động đều được làm bởi động cơ tốt. Cả hai, người đặt giày lên để che mưa và người lấy giày xuống, hai người đã tạo được nghiệp thiện.

Động cơ là điều hết sức quan trọng, đặc biệt là động cơ nhân, như tôi đã đề cập ở trước. Nếu có thể được thì động cơ lúc xảy ra cũng là thiện nhưng trong hai loại động cơ thì động cơ nhân quan trọng hơn. Không kể đến những hành động liên quan đến Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng - thì chính động cơ nhân là cái quyết định hành động là đạo đức hoặc phi đạo đức.

Việc này được viết ra đặc biệt rất rõ trong Khai mở Cánh cửa Pháp, tôi muốn lập lại lần nữa:

Với hầu hết mọi người, giết người là một nghiệp bất thiện. Tuy nhiên vì hành động giết người của vị thuyền trưởng được thúc đẩy bởi lòng Đại Bi nên không trở thành nghiệp bất thiện. Và còn hơn thế nữa, nó đã trở thành một phương pháp đặc biệt để hoàn thành công đức.

Một kho tàng công đức đã được tích lũy vì vị thuyền trưởng đã hy sinh trọn vẹn, đã cam chịu sinh vào địa ngục khi giết người, nhờ công đức đó ông ta tránh khỏi rơi vào địa ngục.

Các Kinh điển nói rất nhiều lần rằng bồ đề tâm là phương pháp đặc biệt để tích lũy công đức. Điều này cũng được giải thích rất rõ trong rất nhiều luận giảng về luyện tâm của Kachen Yeshe Gyaltsen. Cho nên người ta có thể chuyển hóa phi đạo đức thành đạo đức. Tất cả đều do ở động cơ, do tâm nguyện.

Xem mục lục