ĐIỂM TRỌNG YẾU THỨ BA :
CÓ ĐƯỢC SỰ XÁC TÍN TRONG GIẢI THOÁT
Chủ đề chúng ta đang thảo luận là tịnh quang thừa của Đại Viên Mãn Nying-Thig. Bậc thầy của con đường sâu xa này là Đức Phật trong hiển lộ Pháp Thân của Ngài là Samantabhadra (Phổ Hiền), Đức Phật nguyên thủy, đấng đã hiển lộ mạn đà la trí huệ nguyên thủy của sự biểu lộ Pháp Thân.
Giáo lý này về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu có liên quan tới cái thấy, thiền định và hành động, chúng tương ứng với các tên của ba bậc nắm giữ dòng truyền thừa vĩ đại. Cái thấy là Longchen Rabjam, “sự bao la vô hạn vĩ đại”. Thiền định là Khyentse Ozer, “các tia sáng của sự trí huệ và tình thương”. Hành động là Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng”. Điểm trọng yếu thứ nhất là nhận ra bản tánh của các bạn. Điểm thứ hai là xác quyết trên một điều.
Bây giờ chúng ta bắt đầu với điểm thứ ba, nó liên quan tới hành động và tương ứng với tên Gyalwe Nyugu, “con trai của các đấng Chiến Thắng”. Cách thức mà các bạn nên thực hành là an trụ trong sự tỉnh giác về ba điểm giải thoát các vọng tưởng. Điểm thứ nhất là nhận ra giác tánh nội tại là bản tánh của các bạn. Việc nhận ra bản tánh của các bạn thì giống như nhận ra người nào quen biết mà các bạn đã không nhìn thấy trong một thời gian dài. Nó là một sự nhận ra hiển nhiên. Điểm thứ hai, an trú mà không có bất kỳ bận tâm nào tới lợi hay hại khi các bạn ngơi nghỉ trong giác tánh nội tại. Điều này giống như một kẻ trộm chạy vào một căn nhà trống và nhận thấy không có gì để trộm cắp, và vì thế không có lợi cũng không có hại. Điểm thứ ba để giải thoát các vọng tưởng thì tương tự một con rắn tự duỗi mình một cách tự nhiên. Một yogin ngoại hạng, khi duy trì cái thấy theo cách này, sẽ không bao giờ rơi vào cạm bẫy của mối bận tâm đối với lợi hay hại. Tuy nhiên, lúc ban đầu, trước khi các bạn đạt tới cấp độ đó, các bạn phải nhận ra các vọng tưởng. Việc đơn giản nhận ra chúng thì giống như một con rắn tự duỗi mình ra.
Với ba cách giải thoát này ta có thể giải thoát các vọng tưởng một cách phù hợp. Có một sự tương đồng với sự thiền định không đúng đắn : ta muốn tránh ánh nắng mặt trời và vào nghỉ trong một bóng cây, rồi lại đứng dậy và có thể lại quay vào nghỉ trong bóng mát. Các bạn đừng thiền định theo cách này, bởi các bạn sẽ không đối mặt với tham và sân, ưa thích và ghét bỏ bằng cách tiếp cận đúng đắn và các bạn sẽ không thể chiến thắng chúng.
Do bởi các hiện tượng phức hợp được đặt nền trên sự vô minh hay thiếu tỉnh giác, chúng ta đã đang lang thang vô tận trong vòng sinh tử. Bất kỳ cố gắng nào để trở nên thoải mái bằng cách tìm cầu những gì ưa thích và tránh né những điều ghét bỏ, bằng việc theo đuổi bất kỳ điều gì xuất hiện, sẽ chỉ kéo dài sự bất lực của các bạn trong việc hộ trì sự nhận biết rigpa. Các bạn cần làm việc với ba cách thế để giải thoát các vọng tưởng là những gì các bạn kinh nghiệm như những bông tuyết rơi trên một tảng đá cháy nóng, lập tức tan ra, hoặc những gì các bạn tấn công bất ngờ như một con chim kên kên vồ chụp một con chim nhỏ. Các bạn cần giữ gìn giáo lý về tánh giác để các bạn có thể kinh nghiệm các tư tưởng phát khởi và được giải thoát đồng thời. Đây là cách truyền thống Nying-Thig thực hành giáo lý Dzogchen.
Có những lúc tâm thức tràn đầy sự tham luyến rất mạnh mẽ, sự mãnh liệt tiềm ẩn của các biến cố tâm lý thứ yếu, nó áp đảo sự thiền định. Nếu các bạn tự cho phép mình đi theo những tư tưởng này trong thiền định thì các bạn sẽ tích tập nhiều thêm nữa các nguyên nhân cho vòng sinh tử. Nếu các bạn cho phép tâm thức niệm tưởng bình phàm này chiến thắng các bạn, thì các bạn đang tích tập các dấu vết nghiệp trên alaya (a lại da thức), cấp độ của tâm thức nền tảng của kinh nghiệm thông thường. Và đây đúng là những gì các bạn mang theo mình như hành trang đi tới những đời sau. Lệ thuộc vào những tập quán đó, các bạn sẽ có những khuynh hướng nào đó sẽ chín mùi trong đời này và những đời tương lai. Vì thế các bạn phải thận trọng.
Có một sự tương đồng trong việc vẽ trên nước. Hình vẽ trên nước thì như sự phát khởi của các vọng tưởng từ nước là cái gì giống như giác tánh nội tại rigpa. Điều này được gọi là trạng thái tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên. Bất kỳ vọng tưởng nào xuất hiện cần được đối xử như những hình vẽ trên nước, chúng xuất hiện từ nước và tan biến lại trong nước. Chúng hoàn toàn không thể sờ mó được. Mọi vọng tưởng xuất hiện từ rigpa tan biến trở lại vào rigpa, và khoảnh khắc đó chúng ta kinh nghiệm sự tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên.
Bất kỳ sự hình thành tư tưởng nào khởi sanh từ rigpa phải được coi là thực phẩm tươi ngon cho giác tánh trống không bởi vì dù là loại tư tưởng nào, nó là một biểu lộ của Pháp Thân. Nó là sự phô diễn của Pháp Thân, vốn không dấu vết và tự do một cách tự nhiên. Chúng ta tìm thấy cách diễn cảm “A La La” trong bản văn gốc. Đây là một sự biểu lộ ngạc nhiên hay kỳ diệu. Trong trường hợp này, sự ngạc nhiên phải thực hiện với nhận thức bất ngờ rằng thậm chí các vọng tưởng cũng là một biểu lộ của Pháp Thân.
Là các hành giả bình thường, do khuynh hướng mạnh mẽ này bị khuynh loát bởi sự giam cầm của các tích tập nghiệp và sự hiện diện của các tích tập này, chúng ta có thể cho rằng ta phải kềm hãm các tư tưởng và hoàn thành điều gì đó. Vì thế chúng ta bị vướng mắc trong tiến trình sản sinh cái gì đó này để tiệt trừ mọi tập quán đã được tích tập. Đừng để cho những tình huống này chế ngự. Thay vào đó, hãy chỉ đơn giản nhớ tính cách tự-giải thoát xảy ra một cách tự nhiên này. Khi các ý niệm phát khởi, chúng tự giải thoát nếu các bạn hiểu rõ ba cách thức giải thoát. Sự nhận thức thì giống như việc nhận ra một người trong một đám đông mà đã lâu các bạn không gặp. Các tư tưởng tự giải thoát trong sự nhận thức. Một cách khác là các bạn nhận thức rằng chúng không có lợi hay có hại. Việc nhận thức rằng không có lợi hay có hại thì giống như một tên trộm vội vã đi vào một căn nhà và nhận ra là nó trống không và không có gì để làm. Hoặc, các tư tưởng tự giải thoát như một con rắn tự duỗi mình ra. Chỉ thư lỏng và biết rằng đây là giáo huấn cốt tủy quan trọng nhất. Nó đặt Dzogchen tách ngoài các con đường khác, gồm cả Trung Quán và Mahamudra (Đại Ấn). Đây là giáo lý cao tột của Dzogchen.
Có những cấp bậc thiền định khác đưa ra tới những mức độ cao hơn trong các cõi sắc và vô-sắc, nhưng những thiền định đó như sữa hư hay bơ thối bởi vì chúng là những trệch hướng đối với con đường đi tới sự thiền định chân thật. Bản tánh của tánh Không là Pháp Thân và sự thiền định là thiền định của sự ngơi nghỉ trong bản tánh của thực tại như nó là. Đây không phải là một thiền định phân tích. Đây là cách thức mọi khía cạnh của nghịch cảnh được đưa vào con đường để ngăn cản bất kỳ sự lạc lối nào do nỗ lực phân biệt giữa xấu và tốt, cần thiết và không cần thiết. Không có sự hiểu biết này, sự thiền định là con đường lầm lạc (vô minh). Đây là sự thiền định quy nhất giải thoát ta khỏi con đường lầm lạc.
Sự giải thoát không đến từ các kỹ thuật shamatha được sử dụng bởi cách tiếp cận Tiểu thừa, vì với các kỹ thuật này ta chỉ có thể thành tựu một trạng thái an trú yên bình tạm thời. Chúng không giải thoát tâm thức khỏi vấn đề căn bản, và vì thế các vọng tưởng tiếp tục phát khởi. Đây là lý do tại sao việc đạt được sự xác tín trong cái thấy và việc duy trì sự thiền định phù hợp với cái thấy thì thật quan trọng. Nó là phương cách duy nhất để giải trừ các vọng tưởng. Với kỹ thuật này các bạn sẽ như một người đi tới một đại lục tràn ngập châu báu và không có bất cứ một hòn đá tầm thường nào. Các vọng tưởng không đáng sợ chút nào. Chúng trở thành giòng chảy không ngưng nghỉ trong việc duy trì sự xác tín vào cái thấy.
Trong kinh nghiệm này mọi tri giác mê lầm được tịnh hóa trong sự phô diễn của Pháp Thân, và mọi nghịch cảnh xuất hiện như những bằng hữu của ta. Mọi mê lầm được bao hàm như con đường và sinh tử không bị loại trừ. Sinh tử thì toàn hảo trong bản tánh bẩm sinh của nó và ta được giải thoát khỏi sự trói buộc của sự hiện hữu hiện tượng, bởi ta đã kinh nghiệm trạng thái giải thoát không thể được tìm kiếm và nó vốn như thế. Nếu ta không có kinh nghiệm về Pháp Thân này, nó không phải là một sự thiền định, thì ta không bao giờ có thể hy vọng có được bất kỳ kết quả nào trên con đường. Bất kỳ sự thiền định nào mà ta thực hiện cũng sẽ chẳng bao giờ có lợi lạc. Nó sẽ chỉ là con đường lầm lạc, bởi ta vẫn bị trói buộc với sự bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Sự bám chấp vào bản ngã và dính mắc với các hình tướng khách quan đã gây nên một sự phân cách giữa bản ngã và các đối tượng và sự phân cách giữa chúng sinh và Phật tánh, hay sinh tử và Niết bàn. Nếu ta thực hành kỹ thuật Dzogchen về sự xác định cái thấy và duy trì sự thiền định, là sự tỉnh giác về cái thấy, thì ta sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của bám chấp và dính mắc nhị nguyên. Đây là trạng thái không do trau dồi (tu tập) của Pháp Thân. Ta đã có được sự xác tín nơi sự giải thoát, hiểu rõ đây là cách thức duy nhất để thành tựu sự giải thoát và sự xác tín đó là điểm trọng yếu thứ ba.
Cái thấy là Longchen Rabjam, Thiền định là Khyen-tse Ozer. Hành động là Gyalwe Nyugu. Trong Dzogchen chúng ta có cái thấy, thiền định, hành động, và quả, chúng tạo thành sự thành tựu toàn khắp này về giác tánh nội tại. Khi trạng thái giác tánh nội tại này trở nên hoàn toàn rõ ràng, nó là tri giác trực tiếp của Pháp tánh, là cái có năng lực soi sáng mọi cấp độ bóng tối. Nó giống như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng bóng tối vô minh.
Tiến trình đó bắt đầu với cái thấy, là sự nhận ra bản tánh tỉnh giác nội tại của ta. Nhờ thực hành, cái thấy trở thành tánh thanh tịnh nguyên thủy tương ứng với trekchod “sự cắt đứt tới tánh thanh tịnh nguyên thủy”. Các bạn dùng cái thấy để cắt đứt tới tánh thanh tịnh nguyên thủy. Trạng thái thuần tịnh nguyên thủy đó là sự trong sáng trống không nền tảng, nó không bao giờ bị ô nhiễm bởi các khuynh hướng tập quán, nó không có vết tích của đức hạnh hay ác hạnh, nó tinh khôi và viên mãn tự thân. Nó là cực điểm của tất cả chín thừa.
Sự thành tựu Dzogchen này là kết quả tối hậu của tất cả những con đường khác nhau của Phật Pháp, nhưng cuối cùng, để thành tựu con đường đó các bạn phải thành tựu Dzogchen. Nhờ thành tựu trạng thái thuần tịnh nguyên thủy này, ta trực tiếp gặp gỡ bản tánh trí huệ tự-sinh của ta. Để gặp gỡ bản tánh trí huệ tự-sinh một cách trực tiếp, ta thiền định theo ba phương cách để giải thoát các vọng tưởng và đạt được trạng thái toàn giác viên mãn này. Mọi sự được bao gồm trong trạng thái toàn giác viên mãn này. Mọi sự mà loài người biết tới thì vốn nội tại ở đây. Cho dù các bạn không trải qua thời gian để học hỏi những điều này, tâm thức các bạn sẽ tự nhiên mở rộng qua sự thực hành, và tánh giác toàn trí bẩm sinh bao la sẽ là tự hiển lộ. Mức độ cao cấp này được đạt tới với thị kiến thứ ba của tošgal được gọi là “mức độ viên mãn của rigpa”. Các bạn sẽ đạt tới một điểm trong sự thực hành của các bạn ở đó các bạn sẽ cảm nhận rằng đã có lúc các bạn đã bị mê lầm nhưng bây giờ không còn thế nữa. Sẽ có cảm giác nào đó rằng có lúc các bạn đã là một chúng sinh tầm thường, nhưng bây giờ là một A La Hán. Các bạn sẽ đến chỗ biết sự khác nhau ấy và điều đó sẽ không thay đổi. Khi các bạn còn là một chúng sinh, các bạn có thể thiện lành trong ngày hôm nay và vô đạo đức vào ngày mai bởi các bạn có thể biến đổi, nhưng khi các bạn đạt tới cấp độ này của Dzogchen thì không thể thay đổi hay trở lại được nữa.
Vào lúc ta gặp gỡ bốn ánh sáng, gồm ánh sáng của “trí huệ tự-sinh”, trí huệ bẩm sinh của ta bắt đầu sáng chói trong cách thế mà cái toàn giác nội tại này hiển lộ. Đây là sự chứng ngộ bản tánh của shunyata (tánh Không), nó thấm đẫm lòng trắc ẩn và đại bi bẩm sinh. Rồi thì lòng từ ái và bi mẫn tự phô diễn khiến ta thực sự có thể hành xử đời mình như một Bồ tát, là bậc mà cách hành động tự biểu lộ như một hành giả của sáu ba la mật. Hành động này sẽ trở thành một đại dương mênh mông của Bồ tát hạnh, nó huy hoàng và chói ngời như những tia nắng mặt trời chiếu sáng đồng thời trong mọi phía.
Cái thấy này của sự tiếp cận tịnh quang, con đường Kim Cương thừa Đại Viên Mãn thì vô song. Đây là các giáo lý siêu việt nhất từng được trình bày trong thế giới này. Nếu đã từng có một giáo huấn trực chỉ cốt tủy, thì giáo huấn đó chính là pháp Dzogchen. Giáo huấn trực chỉ này đến trực tiếp từ Đức Phật nguyên thủy Saman-tabhadra (Phổ Hiền) tới Đức Vajrasattva, ngài truyền nó cho ngài Garab Dorje, xuống tới Guru gốc của tôi, Guru truyền nó cho tôi như tinh túy của lòng ngài trong hình thức của các giáo huấn trực chỉ cốt tủy. Giáo lý này được trình bày qua ngôn từ, nó súc tích không thể nghĩ bàn và hoàn toàn sâu xa. Ngài Patrul Rinpoche đã nói về chính mình khi ngài viết về bản văn gốc di chúc cuối cùng này của ngài Garab Dorje : “Dù tôi là người đã không thực hiện thiền định cũng có được những lợi lạc to lớn.” Đây là một cách biểu lộ sự khiêm tốn. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là ngài đã không đạt được trạng thái thành tựu đó. Đây là dòng khẩu truyền cổ xưa, trước tiên nó phải được nghe để cắt đứt mọi nghi ngờ, sau đó được tư duy để củng cố sự xác tín hoàn toàn, và cuối cùng được thiền định để đem lại năng lực vốn tiềm ẩn. Giáo lý này về cái thấy, thiền định, hành động, và quả được truyền dạy lúc ban đầu bởi ngài Garab Dorje vĩ đại khi ngài ra đi trong thân cầu vồng. Thân ngài là một trái cầu ánh sáng trong bầu trời khi đệ tử Manjushrimitra của ngài cầu xin ngài ban cho các giáo huấn cốt tủy trước khi ngài biến mất. Các giáo huấn đến từ quả cầu ánh sáng này và được Manjushrimitra nhận lãnh. Ngay chính giây phút đó tâm Manjushrimitra và Garab Dorje hợp nhất và trở thành không hai. Đây là di chúc cuối cùng của Garab Dorje.
Ngài Longchen Rabjam đã trải đời mình để thực hành giáo lý này và đã đạt được thị kiến thứ tư của tošgal được gọi là “sự tan biến của các hiện tượng trong chân tánh của chúng”. Điều này có nghĩa là sự nhị nguyên ngừng hiện hữu, và đó là sự giác ngộ. Hoạt động giác ngộ của Ngài đã được viên mãn, và Ngài đã thọ nhận dòng truyền dạy tâm-truyền-tâm. Sau đó Longchen Rabjam xuất hiện với Jigme Lingpa trong một linh kiến và truyền các giáo lý này cho ngài. Đến lượt Jigme Lingpa đã thiền định về các giáo lý này và truyền chúng cho đệ tử chính của ngài là Gyalwe Nyugu, vị này thành tựu chúng và truyền các giáo lý do Patrul Rinpoche, là bậc đã viết bản văn này. Giáo lý này là một sự truyền dạy của cả ba dòng truyền thừa : dòng tâm-truyền-tâm, dòng truyền dạy bằng các biểu tượng, và dòng khẩu truyền. Đây là vàng đã được tinh lọc. Nó không chỉ là vàng, nó được tinh lọc, cốt tủy của tám mươi bốn ngàn pháp môn. Nó là tâm yếu của ba dòng truyền thừa, được bí mật trao cho các đệ tử tâm đắc. Nó là ý nghĩa sâu xa và lời nói từ tâm. Một người thực hành giáo lý này sẽ chắc chắn đạt được giác ngộ trong chỉ một thân, trong chỉ một đời. Nó không được chia xẻ với bất kỳ người nào nghi ngờ. Tuy nhiên không chỉ bày nó cho người có đức tin sẽ là một thất bại to lớn. Đây là giáo lý đặc biệt của Khepa Shri Gyalpo, Patrul Rinpoche, ngài sống khoảng một trăm bảy mươi năm trước. Ngài có nhiều đệ tử đã trở thành các đại đạo sư của thời đại chúng ta và là các bậc thầy của chúng ta, và chính từ các ngài mà ta nhận lãnh những giáo lý. Điều này thì không quá xa.