Chương 2
Chuyển Hóa Tâm Thức
Giáo huấn bao gồm hai phần :
1- Giới thiệu tổng quát về những giáo huấn Phật học .
2- Giải thích phương cách; Vận dụng những giáo huấn và thực hành .
Tam bảo
Như vừa thấy, nếu không qui y trước giáo huấn không thể xem như nền tảng Phật học. Vì thế, quy y là việc quan trọng hơn sự sáng tỏ. Tam qui y bao gồm Phật , Pháp và Tăng già. Riêng đức Phật là người ngoại hạng, ngài là một vị thánh sinh ra ở Ấn độ cách đây 2000 năm. Tuy thế, chúng ta vẫn không giới hạn định nghĩa thuật ngữ Phật riêng dành cho nhân vật lịch sử đáng kính trọng. Vì thế để hiểu Phật bảo trước tiên phải trình bày thế nào là Pháp bảo.
Một khi đã thấu hiểu thế nào là Pháp bảo. Chúng ta sẽ thấu hiểu đức Phật cũng là một con người. Sau khi thực hành Pháp bảo. Ngài đã trở thành một vị thánh, sẵn có những phẩm chất hoàn hảo của Pháp; phát xuất từ sự từ khước và thành tựu. Từ thuật ngữ Pháp bảo chúng ta có thể hiểu thật sự thế nào là ý nghĩa của Tam Bảo.
Để hiểu ý nghĩa Pháp bảo, nên biết Pháp hai nghĩa của thuật ngữ :
1- Pháp bảo: Là những bản văn hay sự trao truyền .
2- Pháp bảo: Là sự thành tựu và trải nghiệm .
Đồng thời có thể nói : Pháp bảo liên quan đến hai trong bốn sự thật tuyệt đối :
1- Sự thật về sự ngưng khổ .
2- Sự thật về con đường đưa đến ngưng bặt đau khổ .
Lãnh hội về hai sự thật tự nhiên hợp thành căn bản giới thiệu thế nào là Pháp bảo .
Pháp bảo bao gồm phẩm chất ngưng trệ đau khổ và phẩm chất của con đường. Hãy xem xét phẩm chất ngưng trệ đau khổ. Thành ngữ: Phẩm chất ngưng bặt đau khổ nói về: Loại trừ những khuyết điểm và biến mất nhờ ứng dụng sự đối trị. Vì thế , cần hiểu chính xác những gì cần loại trừ và làm tan biến. Đó là những kỹ thuật đối trị, cho phép giải thoát khuyết điểm. Những phương tiện hay phương pháp mang đến sự giải thoát. Để hiểu được tất cả những điều này. Chúng ta cần phải biết: Khi bánh xe Pháp quay lần đầu, đức Phật bắt đầu dạy về Tứ diệu đế hay bốn sự thật.
Tứ diệu đế hợp thành cơ sở và là nền tảng giáo huấn của đức Phật là :
1- Sự thật về đau khổ .
2- Sự thật về nguồn gốc đau khổ .
3- Sự thật về sự ngưng khổ .
4- Sự thật của về con đường đưa đến sự ngưng khổ .
Điều quan trọng là nên hiểu thứ tư một cách hợp lý về Tứ diệu đế hay Bốn sự thật. Vì thế tôi dự định nói chi tiết về bốn sự thật và sẽ khởi đầu bằng cách đề cập đến: Mười hai quan hệ của những nguồn gốc tương thuộc hay Thập nhị nhân duyên. Vấn đề thứ nhất trong 12 quan hệ là : Vô minh nền tảng. Tại sao có thuật ngữ: Vô minh nền tảng và thuật ngữ này muốn nói về điều gì ? .
Trong bối cảnh hiện tại, Vô minh không có nghĩa duy nhất là: Sự lầm lẫn hay tâm thức thiếu sáng tỏ hoặc tâm thức đơn giản chỉ vắng bặt sự hiểu biết. Chắc chắn , thuật ngữ Vô minh đồng tới có một loạt ý nghĩa. Vô minh ở đây là Vô minh làm nhân cho sự hiện hữu có điều kiện xuất hiện. Có nghĩa Vô minh diễn đạt về Trạng thái tâm thức lạc lối hay lầm lẫn.
Để khẳng định. Chúng ta có thể quan sát rõ trạng thái tâm thức có lầm lẫn hay không. Trước hết hãy xem xét những gì được xem như sự thật hay tương tự. Đây là tiêu chuẩn dùng để phân biệt trạng thái tâm thức lầm lẫn hay đúng đắn . Đồng thời có thể khẳng định những gì được xem là nguồn gốc của hạnh phúc và căn nguyên của sự phiền nhiễu. Giả sử vô minh như chúng ta định nghĩa. Chủ yếu chính là sự xem thường bản chất thật sự của những sự việc. Vì thế, điều cần thiết là phải hiểu biết chính xác về bản chất của những sự việc đang xuất hiện.
Từ sự kiện này, nên xem chi tiết từng của hiện tượng cũng như thế giới bên ngoài và những gì được hình thành từ tâm thức. Chúng ta có thể tự hỏi: Phương cách hiện tượng xuất hiện tương ưng với những gì trong bản chất thật sự của nó ?. Với hai mô hình. Mô hình những sự việc thật sự hiện hữu và bề ngoài của chúng có giống nhau hay không ?.Cho dù với bất cứ phương pháp nào chúng ta dùng để đặt vấn đề. Vẫn có một khoảng cách giữa mô hình về những sự việc bên ngoài và bản chất thật sự của chúng. Với căn bản này chúng ta sẽ nói đến hai sự thật:
1- Sự thật tương đối hay qui ước .
2- Sự thật tuyệt đối hay nền tảng .
Có nhiều phương cách giải thích về hai sự thật này. Chủ yếu tôi chỉ dựa vào sự tiếp cận của Trung đạo hay Madhyamaka. Theo sự tiếp cận này, chúng ta nên hiểu: Thế nào là bản chất hay nền tảng tuyệt đối của hiện thực. Với sự lãnh hội này, chúng ta có thể định nghĩa: Vô minh như trạng thái tâm thức lầm lẫn bị xao lãng về bản chất thật sự những sự việc. Như thế, để hiểu chính chắn về thứ tự hợp lý của Tứ diệu đế, chúng ta nên tiếp cận giai đoạn hiểu biết: Thế nào hai sự thật tương đối và tuyệt đối hoàn toàn tương tác với nhau .
Trò Chơi Đối Lập
Bây giờ cho phép tôi giải thích những sự việc dưới một góc cạnh khác. Mục tiêu của giáo huấn Phật học là: Dùng để chuyển hóa tâm thức. Nhưng làm sao tâm thức có thể chuyển hóa ?. Theo thường, nếu cần thay đổi hay chuyển hóa điều gì từ bên ngoài. Người ta bắt đầu nghiên cứu phương cách những thành phần xung khắc hay đối kháng. Nếu cần có một vài đặc tính hay kết quả. Cần phải giới hạn sự đối lập, cho dù nó là gì đi nữa. Ngược lại, nếu một thành phần không cần thiết, người ta có thể loại trừ và gia tăng sự đối lậ .
Thí dụ: Một căn bệnh. Trong số những thực thể hóa học và những bộ phận trong thân như tế bào chẳng hạn. Có cái thì lành mạnh và cái khác lại có hại. Một khi đã nhận dạng ra và nhận chúng phản ứng và hủy diệt lẫn nhau như thế nào. Lúc ấy bác sĩ có thể cho vào một thực thể mới hóa giải thực thể có nguồn gốc bệnh hay đau đớn và ngăn chận chức năng hủy diệt của nó. Nếu chỉ biết ngồi tụng đọc: Mong những tế bào làm tôi đau đớn được loại trừ !. Chắc chắn; những tế bào xấu không thể biến mất cho dù một chút. Cũng như nếu chỉ ngồi mà suy nghĩ và chờ đợi: Mong rằng chúng biến mất !. Điều cần thiết nên làm là: Phải tìm yếu tố nghịch lại và củng cố để giảm thiểu cơn bệnh.
Chuyển hóa tâm thức vận hành cũng cùng một nguyên lý: Tìm sự đối trị trong tâm thức. Mặc dù tâm thức không thể sờ mó. Nhưng vẫn có thể tự hỏi: Sự đối giống như điều gì ?. Thật ra, đây là những phương cách khác nhau để có thể nhận định những sự việ . Một thái độ của tâm thức hay phương cách tập trung tâm thức. Có thể chọn một thí dụ trong cuộc sống: Khi nghe hay thấy điều gì phát sinh trong tâm thức. Chúng ta có thể nhận định sự việc tuyệt vời hay khủng khiếp như thế nào. Như thế, hai trạng thái tâm thức đều tùy thuộc cùng cùng sự rõ biết khi chú ý vào cùng một đối tượng và sự nhận định về chúng lúc nào cũng hoàn toàn đối nghịch.
Như vậy, muốn giới hạn hay làm yếu một vài trạng thái tâm thức. Điều cần thiết là: Phải đi tìm trạng thái tâm thức ngược lại. Thí dụ về: Giận dữ, lòng ham muốn hay ác tâm. Khi rõ biết những bất lợi trong trạng thái tâm thức tiêu cực. Nếu muốn giới hạn. Bạn cần vun trồng tính đối kháng như: Tình thương và sự trìu mến. Xem sự ham muốn và lòng ác tâm là những trạng thái tâm thức chỉ làm hại người khác. Khi đã cảm nhận được sự ác tâm. Cách đối trị với thái độ này là biết chú ý đến mọi người và thành thật tư duy: Nếu họ có thể cảm thấy thoải mái !. Nếu họ có thể tràn ngập niềm vui !. Khuynh hướng tâm thức này hoàn toàn có thể làm suy yếu tâm thức tiêu cực và ngược lại với sự giận dữ hay sự ác tâm.
Nói chung, hiện diện hai thái độ đối nghịch. Cái này sẽ làm yếu cái khác. Như thế, khi những tư tưởng giận dữ hay ác tâm gia tăng. Tình thương và sự trìu mến phải giảm theo tỷ lệ nghịch. Và khi tình thương và sự trìu mến được củng cố . Những sự ác tâm giảm thiểu. Tương tự, có thể nhận ra sự đối nghịch về hiện tượng thuộc thế giới bên ngoài. Chúng ta có thể dùng để thay đổi tâm trạng. Như thế , nếu biết tìm những tác nhân ngược lại bên trong tâm thức. Chúng ta có thể chuyển hóa chúng.
Ngăn Ngừa Vấn Đề Trước Khi Xảy Ra
Phương pháp dự báo và ngăn chận hiện tượng trước khi hiện tượng xuất hiện. Chẳng hạn như đau khổ. Đây là là sự việc không một ai mong muốn. Nhưng khi đau khổ hình thành, quả thật tốt nếu có phương pháp để làm dịu nổi đau. Nhưng hiệu quả quan trọng nhất là: Nên phản ứng lập tức trước khi sự đau khổ tấn công hơn tự trấn an mình nó sẽ không bao giờ xảy ra. Đây là những vấn đề thuộc về thế giới bao quanh phát sinh từ những khó khăn tâm lý hay cảm xúc. Thật sự chúng ta vẫn có thể dự đoán và ngăn chận chúng xảy ra. Nếu được thế sẽ cho phép tránh khỏi những sự việc không muốn.
Giờ có thể thử xem sự việc xảy ra như thế nào. Khi nói đến một vấn đề nào đó cho dù bên ngoài hay bên trong. Thật sự chúng không thể hoàn toàn độc lập. Vì không có gì không tùy thuộc vào nguyên nhân và điều kiện cho dù trải nghiệm bên trong hay về những hiện tượng bên ngoài; đều xuất hiện từ nguyên nhân và điều kiện. Vì thế, để loại trừ một vấn đề hay sự đau khổ. Trước tiên cần nhận ra nguyên nhân và điều kiện kết hợp chi phối. Sau đó cảnh giác và nhận định rõ chúng không thể hội tụ và đạt đến sự chín mùi. Nếu thiếu đi bất cứ một nguyên nhân và điều kiện nào dù thật nhỏ. Với phương pháp này, có thể ngăn chận kết quả không tránh khỏi.
Tương tự, không gì thuộc thế giới bên ngoài hay trải nghiệm bên trong xuất hiện độc lập những nguyên nhân và điều kiện. Cũng không gì là kết quả từ một nguyên nhân hay một điều kiện duy nhất. Thật ra, những sự việc phải tùy thuộc phần lớn vào những nguyên nhân và điều kiện. Vì thế, nếu muốn tìm phương tiện đánh tan đau khổ và đi tìm hạnh phúc. Chúng ta nên tự hỏi: Thế nào là bản chất của đau và hạnh phúc ?. Những nguyên nhân và điều kiện nào đã chi phối ?.
Vì thế, nên tìm những nguyên nhân và điều kiện tạo thành sự đau khổ. Từ đó, có thể ngăn chận trước khi chúng hình thành. Nếu không có khả năng can thiệp ngăn chận một sự việc xảy ra. Kết quả vẫn chín mùi và tiếp tục rơi vào sự khắc nghiệt của hiện tượng đã kết thành trái quả. Lúc ấy chúng ta không còn chọn lựa nào khác hơn là phải quay trở lại phương pháp cho phép giảm thiểu nỗi đau khổ.
Vì những lý do này giáo huấn Phật học được vận hành trong cuộc sống. Đương nhiên , hạnh phúc và đau khổ chủ yếu là những cảm giác và cảm xúc được nhận ra từ bên trong. Chẳng hạn, tác động bên ngoài, đối tượng nhận thấy được. Có thể trong vài chiều hướng nào đó , nó là yếu tố của hạnh phúc và đau khổ. Nhưng hạnh phúc và đau khổ chủ yếu vẫn là những trải nghiệm thuộc về lãnh vực rõ biết.
Vì thế, điều quan trọng là phải hiểu rõ tổng thể bản chất của cảm giác và cảm xúc. Nhất là những nguyên nhân và điều kiện nào đã chi phối. Với sự khai phá có hệ thống về tâm thức sẽ giúp chúng ta thể hiện được rất nhiều chi tiết !. Một khi đã tìm ra những yếu tố ngược lại. Chúng ta có thể sử dụng như những liều thuốc dùng để củng cố khía cạnh mong muốn của tâm thức. Nhưng dù sao đi nữa, đây cũng là phương cách có thể chuyển hóa tâm thức.
Những Gì Cần Thiết Để Chuyển Hóa Tâm Thức
Để tất cả điều này có thể xảy ra, một sự nỗ lực và tích cực hoàn toàn cần thiết. Chúng ta không thể hy vọng tâm thức sẽ thay đổi khi khoanh tay ngồi yên . Nếu biết liệt kê những thành phần tiêu cực an trú trong tâm thức. Người ta có thể gom lại thành ba phạm trù lớn như :
1- Dục vọng .
2- Tâm sân hận .
3- Vô minh .
Thường được gọi là: Ba chất độc hay ba yếu tố ô nhiễm. Từ lâu tâm thức của chúng ta đã quá quen với ba chất độc này đến nổi chúng bây giờ đã bám rễ và ăn sâu vào tâm thức. Ngay cả khi chúng ta nói: Không có dục vọng, không còn tâm sân hận hay đã vắng bặt vô minh. Nói chung, đã tự do thoát khỏi tam độc. Nhưng cho đến nay, trong thực tế chúng ta chưa từng trải nghiệm qua trạng thái như thế. Thật ra, chúng ta còn quá mơ hồ về vấn đề này. Và chúng ta biết rất tồi về cách đối trị để củng cố và chuyển hóa tâm thức. Vì thế, cần nỗ lực nhiều hơn nữa với sự quyết tâm mãnh liệt. Nếu không như thế, chắc chắn có rất ít cơ hội dành cho sự chuyển hóa đơn giản dễ dàng và không có tính chất ngẫu nhiên.
Dạng thức nỗ lực này đòi hỏi sự chuyên cần và tâm kiên nhẫn để phát triển sự quyết tâm. Muốn được như thế, trước tiên phải phát sinh động lực về ý chí cứng rắn để tuyên bố: Tôi phải tuyệt đối đạt đến !. Nếu động lực này đã an trú sâu sắc từ trong tư tưởng. Chắc chắn, chúng ta sẽ đi đến nơi đến chốn, cho dù khó khăn thế nào đi nữa. Vì khi hiểu được những lợi ích sinh ra từ sự chuyển hóa tâm thức và những sự nguy hiểm đe dọa khi tâm thức vẫn ù lì . Điều này có thể kích thích lòng nhiệt tâm và hoài bảo đạt đến hạnh phúc. Nó có thể đánh dấu tầm quan trọng khi hiểu được những tai họa và nỗi đau khổ . Tất cả phát khởi từ những khía cạnh tiêu cực của tâm thức đã tạo thành phiền não . Có nghĩa , những lợi ích từ tâm thức tích cực ; chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta .
Như vậy muốn chuyển hóa tâm thức . Chúng ta cần có sự nỗ lực lớn lao . Điều này đòi hỏi phải bén mùi và miệt mài một cách rất riêng tư . Có nghĩa , muốn cho sự dấn thân đủ mạnh cần phải cực kỳ hăng hái đầy quyết tâm . Thật ra , nếu bạn không có động lực đủ mạnh . Chắc chắn không thể thành công . Vì tất cả vấn đề không phải người nào hay bất cứ những gì bên ngoài có thể giúp chúng ta chuyển hóa tâm thức .
Mọi mưu toan theo chiều hướng từ bên ngoài có thể sẽ tác động ngược lại . Vì tâm thức rất tò mò . Một biến cố cho dù nhỏ đến đâu cũng có thể phát động sự thay đổi . Nếu ai đó cố tình thúc đẩy chúng ta . Họ càng cố tình chúng ta lại càng muốn chống đở . Ngược lại , nếu động lực an trú trong tâm thức và trái tim . Chúng ta sẽ không mệt mỏi và không quan tâm hay chú ý đến những trở ngại .
Động lực Lý Lẻ Và Lòng Xác Tín
Động lực chúng ta là động cơ và sự gợi hứng về những hành động của mình . Vì thế nên xem xét thật gần về lý luận hay những tư tưởng thiết lập . Điều này muốn nói : Chúng ta cần so sánh những lợi ích của động lực với khuyết điểm của thái độ đối kháng . Đồng thời đánh giá hai tác động gần và xa . Đặc biệt với những hệ quả tiêu cực về lâu dài . Trong hai trường hợp , tâm thức đều có khuynh hướng tin vào những gì đã quen thuộc . Nếu điều này xuất hiện , nên suy nghĩ và kiểm soát nhiều lần về bản chất của nó .
Được như thế , tâm thức chúng ta sẽ cảm thấy mạnh mẻ và ổn định và chắc chắn . Bằng ngược lại , không có chút giá trị nào về lòng xác tín chúng ta đã đặt vào . Thật ra , muốn duy trì một lòng xác tín thật đơn giản . Chúng ta nên hạn chế đoán phỏng về bất cứ sự việc nào . Thực sự , mọi người đều thiếu khả năng về sự phát sinh và kiểm soát những lý do ngấm ngầm nào đó . Vì thế , chúng ta cần tin tưởng những hành động nên đặt nền tảng trên những lý lẻ có giá trị .
Chìa khóa của sự chắc chắn này là : Sự hiểu biết bản chất thật sự của những sự việc . Cho dù theo quan điểm tương đối hay tuyệt đối . Chúng ta phải hiểu tại sao và những sự việc xảy ra như thế nào . Nếu không , bất cứ những sự suy đoán nào như : Chắc chắn là như vậy . Không bao giờ phản ảnh được hiện thực . Thật ra , khi sự xác tín được đặt nền tảng hay không về sự lý luận có giá trị . Tất cả nền tảng này càng quá quen thuộc lại càng có khuynh hướng trở thành mạnh mẻ và rắn rỏi .
Dù vậy , thật sự sẽ rất khó khăn khi muốn củng cố lòng xác tín bằng sức mạnh của thói quen ; nếu không có lý do đứng đắn . Vì thế , chủ yếu là : Phải hiểu thế nào những sự việc có thể hiện hữu trong thực tế . Nên những giáo huấn sắp tới sẽ bao gồm hai phần :
1- Lời giới thiệu tổng quát về những giáo huấn phật học .
2- Giải thích về phương cách vận dụng và thực hành những giáo huấn .
Quyền Lực Của Tư Duy
Trở lại những gì có thể thoải mái hay có thể làm hại chúng ta . Nhưng cho dù chúng ta là ai . Tất cả đều mong muốn hạnh phúc và không muốn rơi vào sự đau khổ . Hiện tượng này không giới hạn với những người cùng thời và không chỉ có một người duy nhất mong muốn vui hưởng hạnh phúc và lẩn tránh đau khổ . Vì thế , để sinh tồn và tăng trưởng . Tất cả những sinh vật đều nhạy cảm với sự khoái lạc và đau đớn ; chỉ vì mong muốn đi tìm hạnh phúc và né tránh đau khổ .
Một vài dạng hạnh phúc và đau khổ chủ yếu dính liền với sự rõ biết về cảm giác . Chúng ta đều cùng chia xẻ với những loài vật cùng dạng khoái lạc và đau khổ này . Theo những hình thức bạn đã biết . Âm thanh chúng ta nghe , mùi vị chúng ta ngửi . Hương vị chúng ta nếm hay những cấu trúc sờ mó được . Chúng ta có thể có đủ dạng trải nghiệm không mong muốn và cố tránh xa . Chúng ta muốn chỉ thưởng thức những trải nghiệm hoàn toàn dễ chịu đáng ước ao . Vì nó mang lại sự thoải mái và lạc thú . Nên khuynh hướng đi tìm dạng thỏa mãn là động lực chung cho tất cả loài động vật . Chẳng hạn , thưởng thức khoái lạc trong ăn uống . Đi tìm vui thú về tính dục . Cảm nhận niềm vui hay không hài lòng với tiện nghi do nóng và lạnh . Đó là những trải nghiệm con người đồng chia xẻ với thú vật .
Như vậy , nếu tự hỏi : Có gì khác biệt giữa con người và loài thú . Hình như vấn đề này an trú trong quyền lực tư duy của chúng ta . Chúng ta đã có được những chức năng tư duy và lý luận bao la . Trí nhớ của chúng ta cũng có thể hiểu và nhắc lại lịch sử nhân loại trong nhiều thế hệ . Song song với điều này , chúng ta cũng khả năng lớn về ký ức lâu dài . Như thế , chúng ta có thể nhớ lại những trải nghiệm của sự hiện diện về cuộc sống con người nhiều năm về sau .
Tương tự , chúng ta có thể dự đoán về tương lai . Có nghĩa : Ý thức của chúng ta không giới hạn ở giây phút hiện tại . Hãy nhớ loài thú cũng có khả năng nhớ lại những biến cố đã qua trong một chiều hướng nào đó . Đó thuộc về những dự đoán thuộc tương lai . Chẳng hạn , khi nuôi những đàn con nhỏ . Loài thú hình như biết được những gì thật cần thiết cho những ngày tháng sắp tới tới .
Thật thần kỳ phải không các bạn ? . Nhưng dù vậy , loài thú vật không bao giờ giống như con người . Vì con người có thể nhớ lại nhiều thập kỷ . Nhiều thế kỷ lịch sử đều thể hiện nét đặc thù này của nhân loại . Và điều chia cách con người với phần còn lại của thế giới chính là khả năng lý luận và tư duy .
Chúng ta có thể bắt đầu bằng sự thông tuệ và sự phê bình . Mĩa mai thay , chính khả năng thông tuệ vĩ đại này lại là nguyên nhân của đau khổ . Loài thú chỉ sống trong giây phút chủ yếu chỉ cảm nhận khoái lạc và đau khổ tỏa ra từ những rõ biết về giác quan . Ngược lại , con người luôn nghĩ đến trăm ngàn quan niệm . Chúng ta có trí nhớ đầy ấp những kỷ niệm , những nỗi sợ hãi và những chờ đợi dính liền với tương lai ám ảnh ; làm chúng ta lo âu và nhiễu loạn đến vô tận . Chỉ cần tư duy trong giây phút để có thể nhận ra tất cả điều này xảy ra như thế nao . Đây là lời giải thích quan trong nhất về nan đề : Vì sao tại sao con người có tất cả những gì cần thiết để hạnh phúc . Đồng thời hiện diện trong sự lầm lẫn , suy sút và trầm uất .
Như thế , khả năng thần diệu tư duy một cách thông tuệ cũng có mặt trái của nó . Như trong tư duy vẫn có thể làm tâm thức mất ổn định và đẩy chúng ta lao vào vực thẳm của đau khổ . Những nỗi đau khổ chúng ta tiếp nhận bằng bản chất năm giác quan tuy thật rõ nhưng rất dễ để loại trừ . Tuy thế , chúng ta không thể loại trừ sự đau khổ dính liền vào tư tưởng . Vì khả năng tư duy được phát sinh và thuần dưỡng từ tri thức con người .
Khi chúng ta đau đớn vì tâm thức dao động . Phải chăng rất khó khăn để chiến thắng sự khó chịu nhờ vào thú vui xác thịt , giác quan ? . Đây là lý do : Tại sao chúng ta có thể rất thoải mái về mặt tài chính . Đứng đầu một gia sản đồ sộ , được bao quanh bởi một gia đình hoàn toàn và bạn bè tuyệt diệu . Dù vậy , chúng ta vẫn cảm thấy đau khổ . Sự đau khổ thuộc tâm lý , cảm xúc nằm tận sâu thẳm trong tư tưởng và tâm thức chúng ta . Đau buồn là những điều không thể bị dạng hạnh phúc do những tác nhân bên ngoài vô hiệu hóa .
Nhưng chúng ta có thể đảo lộn lại hoàn cảnh . Nếu biết khai phá sự an lạc , hài lòng và thoải mái trong tâm thức . Chúng ta sẽ bình an ngay khi những điều kiện bên ngoài không lý tưởng và tạo cho chúng ta nổi khó chịu về thể chất . Thí dụ khi rơi vào tật bệnh . Người ta xử lý tốt những vấn đề thể chất và bảo vệ và giúp chúng chống lại điều gì đó tệ hại . Như tiêm chủng bịnh đậu mùa có thể gây ra tác dụng phụ và khó chịu trong một thời gian nào đó . Nhưng nếu hiểu được mũi thuốc ngừa này sẽ giúp chúng ta chống cự lại với căn bệnh và tránh được sự đau khổ trong tương lai . Chắc chắn chúng ta sẽ hài lòng và cảm thấy nhẹ nhỏm .
Cùng lý luận như vậy , một người lính hãnh diện về những vết thương trong chiến tranh . Vì đây là chứng tích cho sự dũng cãm ở chiến trường . Những hành giả tâm linh có thể sẽ gặp một vài đau khổ nào đó trong suốt thời gian thực hành . Nhưng họ biết những thử thách này có tác dụng làm thuần hóa những hành động tiêu cực và củng cố lòng quyết tâm của họ .Như vậy , thái độ tâm thức của chúng ta đối với sự đau đớn về thể chất . Cho phép chúng ta chấp nhận một tình cảm nhẹ nhàng thiếu tiện nghi và sẽ nói cho chúng ta biết rằng : Những điều này quả thật rất xứng đáng .
Quả thật sáng tỏ khi biết rằng : Niềm vui hay sự đau đớn đều do tâm thức cảm nhận và có thể lướt trên những sự khoái lạc và những đau đớn thuộc cảm giác . Tất cả niềm vui hay đau khổ đều dính liền với tâm thức đầy quan niệm của chúng ta . Và tư tưởng có sự tác động rất mạnh ảnh hưởng đến chúng ta ; để thể hiện những điều tốt hay xấu trong cuộc sống .
Bám Chặt Vào Tiến Bộ Vật Chất
Cấp độ phát sinh cảm xúc khoái lạc và đau đớn dính liền với sự tiến bộ về vật chất . Cho đến nay , sự tiến bộ vật chất của con người ngày càng tăng trưởng vượt trội . Cho dù những tác động của khoái lạc và đau đớn vào cuộc sống chúng ta . Nhưng phải nhìn nhận vẫn có sự tiến bộ tích cực về vật chất cực kỳ hữu ích . Tuy vậy , cũng cần nhận ra sự thoải mái tâm lý hay những rối loạn trong tâm thức phát sinh từ tư duy . Những vấn đề này lúc nào cũng tác động mãnh liệt cho dù tốt hay quá tệ hại vào tư tưởng chúng ta . Dù sao đi nữa , quả rất khó khăn để loại trừ sự khủng hoảng trong tâm thức khi muốn nương nhờ vào vật thể bên ngoài .
Sau hết , tâm thức nghỉ ngơi không thể mua được và cũng không thể chế tạo được từ những đối tượng vật chất . Sự an bình và hạnh phúc khó phát sinh trong tâm thức bằng vài thang thuốc đặc trị . Khi tâm thức kiệt quệ do suy nghĩ quá nhiều , người ta thường nhờ vào những liều thuốc an thần để tìm giấc ngủ ; để mong thoát khỏi sự nghiền ngẫm không ngừng trong tư tưởng .
Với tâm thức trống không chúng ta sẽ được thư giản . Trong giây phút này , tâm thức có thể tìm thấy sự tiện nghi tối thiểu và nghỉ ngơi . Nhưng muốn tìm tâm thức nghỉ ngơi và hạnh phúc bằng cách nương nhờ vào những món gia vị bên ngoài . Đó là đều không thể .Vấn đề chủ yếu chính là : Từ tất cả những dạng thức khoái lạc hay đau đớn những con người có thể cảm nhận đều phát sinh từ tâm thức . Về tổng thể , sự tiến bộ vật chất bên ngoài , có thể làm vơi bớt sự đau khổ và đảm bảo cho niềm khoái lạc giác quan . Nhưng rất khó khăn để có tác động thật sự . Vì đau khổ và hạnh phúc đều dính liền với những hoạt động trong tâm thức .
Xu hướng của xã hội thường khiến chúng ta tin rằng : Những đối tượng vật chất bên ngoài có thể lắp đầy tất cả những ham muốn . Đặc biệt tiền bạc và của cải được xem như những nơi an trú thật sự . Chính vì thế , chúng ta vội vã chạy tìm kiếm khi cảm thấy bị đe dọa . Dù vậy , hạnh phúc và đau khổ là những tình cảm và những trải nghiệm sâu sắc riêng thuộc mỗi người . Điều này dính liền với phương cách nào chúng ta tư duy . Nhưng hình như chúng ta không để ý đến và lúc nào cũng đặt tất cả hy vọng vào những yếu tố bên ngoài . Chúng ta an trú trong đó vì tin rằng chúng sẽ làm nhẹ nổi đau đớn và đảm bảo hạnh phúc . Vì thế , chúng ta dành hết nỗ lực vào những yếu tố vật chất . Điều này giải thích tại sao chúng ta kiên định bám chấp không dừng dứt khi chúng khởi động .
Nếu thói quen và toàn thể cuộc sống duy chỉ tùy thuộc vào đối tượng vật chất . Lúc nào chúng ta cũng cảm thấy không vui . Đây là hậu quả không thể tránh khỏi . Nếu chúng ta mãi tiếp tục một cách mù quáng , không bao giờ rõ biết về những gì mình làm . Tâm thức sẽ không bao giờ thỏa mãn . Hậu quả của sự thiếu tri túc hiện diện toàn thể xã hội . Đây là những thiệt hại đáng kể mà chúng ta bắt buộc môi trường thiên nhiên phải gánh chịu .
Tầm Quan Trọng Của Trìu Mến Và Tình Thương
Con người trong tổng thể lúc nào cũng lệ thuộc vào nhau . Vì tất cả đều là những sinh vật đang hiện diện trong cộng đồng xã hội . Vì lý do này , chúng ta nên sống trong tinh thần trao đổi hỗ tương . Nhưng hình như chúng ta đã đành mất những tình cảm trìu mến sơ khai nhất đối với đồng loại như : Tình cảm gần gủi , quan hệ với những người khác khi gặp gở .
Hiện tại xã hội chúng ta không còn xem nặng tình đồng loại và không còn thiết tha nhiều với những đề tài này . Khi đã đặt những vật thể vật chất lên trên . Tất nhiên xã hội không còn quan tâm đến tầm quan trọng của tình thương đồng loại . Có nghĩa khi chú tâm dành tất cả năng lượng để kiếm tìm tiền bạc và danh vọng . Đương nhiên chúng ta sẽ biến thành gỗ đá vì hoàn toàn vắng bặt tình cảm yêu thương .
Nếu chỉ biết bận rộn khi lao vào sự bóc lột người khác khi có bất bất cứ cơ hội nào ; để thao tác quyền lực khi có thể . Nếu chúng ta luôn muốn tích lũy , tranh đua và chiếm hữu . Chắc chắn , chúng ta sẽ bất chấp thủ đoạn để đạt đến cứu cánh . Hiển nhiên , nguyên lý về lãnh vực yêu thương đồng loại không còn hợp thời nữa . Nếu lý tưởng về sự trìu mến con người không còn hiện hữu . Chắc chắn không bao giờ hạnh phúc hiện diện trong cuộc sống . Ngay trong gia đình , trong đời sống lứa đôi hay giữa cha mẹ và con cái . . . Chính vì thế , tuy hiện nay chúng ta đang có biết bao nhiêu con người sống chung với nhau trên trái đất . Nhưng ngay trong thâm tâm mỗi người đều tự cảm thấy mình đơn độc và rơi vào sự cô lập .
Niềm vui hay hiện tại được chia xẻ ? . Và sự quan tâm đến người khác với tình cảm họ là những người bạn của chúng ta ? . Nhất là sự rộng mở và niềm tin trong những quan hệ giữa con người với con người ? . Tất cả những điều này vẫn hình như không đủ và vẫn còn thiếu phải không . Trong sự thật , chúng ta buộc phải sống chung với nhau trên hành tinh nhỏ bé này . Và phải lệ thuộc lẫn nhau trong tầm vóc rất to lớn . Vì thế , ngay trong hoàn cảnh hiện tại buộc chúng ta phải nghĩ đến lợi ích cho toàn thể hành tinh và tất cả nhân loại này .
Tuy rằng thế , chúng ta vẫn bị kẹt cứng chủ yếu trong những nhận định cá nhân bị giới hạn trong bản ngã và cái của chúng ta . Trong tình huống tệ nhất , những điều này đều dẫn đến sự xung đột ngày càng mở rộng trên khắp thế giới . Những gì thiếu thốn trong tâm thức . Khiến những tinh thần hợp tác làm việc điều kiện này làm phát sinh tất cả dạng thức hỗn loạn . Có nghĩa tất cả những con người đang hiện diện trên thế giới đang đối diện với những vấn đề hiện thực này .
Dấu Hiệu Về Con Người Tử Tế
Đối với chúng ta , những con người . Tôi nghĩ : Điều ưu tiên nhất là cần tìm những phương tiện loại trừ khỏi đau khổ và đạt đến hạnh phúc ngay trong tâm thức . Thử nghỉ : Chúng ta có đầy đủ khả năng thực hiện những tiến bộ bên trong tâm thức, theo chiều hướng những tiến bộ và sự phát triển vật chất ! . Theo thiển ý của tôi . Nói chung , những gì mang đến ý nghĩa thật sự cho cuộc sống đều mang lại sự tác động tích cực cho xã hội .
Cuộc sống chỉ mang đến cho chúng ta những niềm vui và đau khổ . Chính vì thế , tôi từng đương đầu với vô số khó khăn . Nhưng khi nghĩ lại những giây phút đầy khó khăn . Cho dù bất cứ hoàn cảnh nào , tôi đều nhận ra sự hy vọng lúc nào cũng hiện diện và cho tôi rất nhiều cơ hội để hạnh phúc . Tôi thường cảm nhận : Trong tận cùng tâm thức . Tất cả cuộc sống của một con người đều có một mục đích đáng được sống . Có thể những điều này hiện hữu trong tôi là : Tôi đã thành lập được sự hiện hữu đích thực của mình trong thệ nguyện : Phải giúp đở tất cả những người khác . Đây là mục tiêu tối cần thiết cho tôi .
Tôi nghĩ : Những điều này thực sự hỗ trợ cho tôi trong suốt cuộc sống . Không riêng chỉ mang lại sự can đảm để tôi đương đầu với những khó khăn . Nhưng chính nó cũng mang đến cho tôi niềm hy vọng trong cuộc sống . Như thế có nghĩa : Những thử thách đều có thể vượt qua và xứng đáng được vượt qua . Và nó mang đến cho tôi sự thoải mái và cho phép mình hoàn toàn trong trạng thái tự nhiên , thư giản và hạnh phúc hoàn toàn trong tâm thức nghỉ ngơi . Chắc chắn điều này đã cống hiến cho sức khoẻ thể chất và tâm trạng của chính mình .
Một trong những điều kiện chủ yếu tâm thức chủ yếu cần có để thư giản là : Không thể không có tròn vẹn thái độ yêu thương và trìu mến đã gợi ý trước đây . Thái độ này hoàn toàn không phải vắng bặt tính chất hay tư tưởng tự nhiên của con người . Hoặc được tác động bởi một điều gì đó hoàn toàn mới lạ đến từ bên ngoài . Chẳng hạn , đứa trẻ lúc còn trong bụng mẹ mình đã nhận ra giọng của bà mẹ . Hình như , khả năng nhận ra tiếng của người mẹ từ lúc trong bụng là việc hoàn toàn tự nhiên . Đồng thời , điều này rất cần thiết cho sự sinh tồn về sau của đứa trẻ . Đứa trẻ tự nhiên đã sẵn có tình cảm thân thiết với người mẹ . Nên từ đó lập tức nhận ra giọng nói của bà ngay từ lúc ban đầu .
Một thí dụ khác : Chữ đầu tiên những đứa trẻ nói bập bẹ ; cho dù với bất cứ ngôn ngữ nào cũng là Ma-ma . Đây là tiếng thật dễ dàng để phát âm . Âm duy nhất ma hay mẹ đều gợi lên sự thân thiện và gần gủi . Không cần nhiều âm , Chỉ cần một âm duy nhất cũng đủ trao truyền sự lãnh hội về tình thương lập tức . Vì người mẹ và đứa trẻ đều chia xẻ cùng một tình thương . Đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong tình thương ngoại hạng kết hợp giữa bà mẹ và đứa con . Có nghĩa : Tất cả hợp thành nhịp cầu cho một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc .Đây là lý do người ta có thể kết luận : Chúng ta đã sẵn có tình thương và lòng trìu mến . Những tình cảm này thuộc về chúng ta một cách tự nhiên không cần phải tư duy .
Như thế , cần củng cố hơn là từ khước và để làm tình thương và sự trìu mến tan biến mất . Vì những điều này thuộc về tính chất nguyên thủy . Vì tình thương là một trong những phẩm chất chú yếu của tâm thức . Vì thế , nó thật quí báu và tối quan trọng cho con người . Một khi đã thấu hiểu được điều này . Chúng ta có thể nuôi dưỡng và tạo mọi điều kiện tình thương ngày càng tăng trưởng tiềm năng nền tảng và tư nhiên trong chúng ta .
Khi một người thể hiện được thái độ yêu thương và trìu mến . Quả thật đây là con ngường đáng được kính nể . Và họ là người có thể được gọi là con người chân chính ( Chân nhân ) . Thái độ phát triển tình thương và lòng trìu mến phát xuất từ bên trong là dấu hiệu của con người tử tế . Không cần họ là một hành giả tâm linh hay không . Đồng thời tình thương và lòng trìu mến chính là nền tảng phát sinh một xã hội hạnh phúc và hòa bình thật sự . Vậy chúng ta nhận thấy sự rõ biết là điều rất quan trọng . Nên cần thực hiện tất cả những gì đang có trong tầm tay để phát triển thái độ yêu thương và sự quan tâm đến tất cả mọi người .
Tình thương và lòng trìu mến phát xuất hoàn toàn tự nhiên bên trong con người . Vì thế tất cả những tôn giáo trên thế giới có vai trò quan trọng là : Kích phát thể hiện tiềm năng và làm tăng trưởng những phẩm chất tuyệt vời này . Phải chăng đây là lý do khiến nhiều quan kiến và triết học khác biệt được phát triển . Có thể nói : Đó là nền tảng để vun trồng những phảm chất rực rở và quý báu sẵn có trong chúng ta . Từ đây có thể kết luận : Đây là lý do duy nhất khiến chúng ta dấn thân vào sự thực hành tâm linh ; để có thể trở thành con người tử tế hội tụ tất cả những phẩm chất : Kiên nhẫn , khoan dung , nhân ái , từ bi , tri túc và kỷ luật trong sự tự giác . Nhưng muốn trở thành môt con người như thế . Chúng ta cần phải thực hành Pháp một cách hoàn toàn tích cực và không mong cầu.