Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

1 (100) Thà nói một chữ có nghĩa lý, đưa người khác tới gần an lạc, hơn là tụng một trăm bài thơ vô nghĩa.

2 (102) Thà nói một chữ đúng chánh pháp, đưa người khác tới gần an lạc, hơn là tụng một trăm bài thơ không đúng chánh pháp.

3 (110) Sống một trăm năm vi phạm tất cả giới pháp, không bằng sống chỉ một ngày giữ gìn tất cả giới pháp.

4 (112) Sống một trăm năm trong lười biếng, không bằng sống chỉ một ngày nhiệt tâm thiền định.

5 (111) Sống một trăm năm với tâm bất định, không bằng sống chỉ một ngày với trí tuệ và tịch lặng.

6 (113) Sống một trăm năm không thấy pháp sanh diệt, không bằng sống chỉ một ngày thấy pháp sanh diệt.

7 Sống một trăm năm không thấy tưởng thọ tịch lặng, không bằng sống một ngày thấy được tưởng thọ tịch lặng.

8 Sống một trăm năm không thấy tịch diệt nhiễm ô, không bằng sống một ngày thấy được tịch diệt nhiễm ô.

9 (114) Sống một trăm năm không thấy tâm bất động (Niết bàn), không bằng sống một ngày thấy tâm bất động.

10 Sống một trăm năm không đắc trí tuệ giải thoát (khó tìm), không bằng sống một ngày nhận ra trí tuệ này.

11 Sống một trăm năm không thấy an lạc tối thắng, không bằng sống một ngày thấy được an lạc tối thắng.

12 Sống một trăm năm không thấy toàn hảo thánh quả, không bằng sống một ngày thấy toàn hảo thánh quả.

13 Sống một trăm năm không thấy tịch diệt hoàn toàn cái chết, không bằng sống một ngày thấy được tịch diệt hoàn toàn cái chết.

14 Sống một trăm năm không thấy bất tử tối thắng, không bằng sống một ngày thấy được bất tử tối thắng.

15 Sống một trăm năm không thấy ly tham ái toàn triệt, không bằng sống một ngày thấy ly tham ái toàn triệt.

16 Sống một trăm năm không thấy dứt tuyệt tham dục, không bằng sống một ngày dứt tuyệt tham dục.

17 (107) Sống một trăm năm tế tự thờ lửa trong rừng, không bằng một khoảnh khắc kính lễ người thiền định về tự ngã; khoảnh khắc kính lễ này công đức nhiều hơn cả trăm năm tế tự thờ lửa. 

18 Người [khổ hạnh] tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Đức Phật.

19 (70) Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Chánh pháp.

20 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Tăng già.

21 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả chúng sanh.

22 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả sanh vật.

23 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả các sanh loài đang thở.

24 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người bày tỏ lòng tử tế.

25 Người tháng này qua tháng nọ, ăn thực phẩm với đầu lá cỏ kusha, không có công đức bằng một phần mười sáu của người giảng rõ chánh pháp.

26 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Đức Phật.

27 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Chánh pháp.

28 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người tin vào Tăng già.

29 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả chúng sanh.

30 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả sanh vật.

31 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người từ bi với tất cả các sanh loài đang thở.

32 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người bày tỏ lòng tử tế.

33 Trong một trăm năm cúng lễ một ngàn lần mỗi tháng, không có công đức bằng một phần mười sáu của người giảng rõ chánh pháp.

34 (108) Cúng tế nhiều vô lượng nơi cõi này để cầu phước cũng không bằng ¼ của hành vi kính lễ người có tâm tịch lặng và chính trực.

Hết Phẩm 24, về Số Lượng

Ghi nhận: Phần lớn các bài kệ trong phẩm này nói về Niết bàn. Bài kệ số 7 trong phẩm này nói rằng thà sống một ngày thấy diệt thọ tưởng dịnh còn hơn sống một trăm năm không thấy như thế. Ghi chú bản Sparham viết rằng thấy diệt thọ tưởng định là phải vào Tứ Thiền, nhưng ghi chú bản Rockhill nói không phải thế, vì lời Đức Phật trong bài kệ chỉ muốn nói là sống tự giải thoát cả hai bờ cảm thọ (ưa/ghét, tham/sân) khi đối cảnh (bản Rockhill: free himself from the passions proceeding from the two regions of form), tức là đoạn tham với tuệ xả ly, lìa dính mắc, tức là đã giải thoát. Nghĩa là, mỗi dịch giả có cách hiểu khác nhau.

Bài kệ số 8 ghi là tịch diệt tội lỗi hay tịch diệt nhiễm ô, được Sparham chú giải là cảnh giới Niết bàn hữu dư. Nơi đây sẽ dịch là “tịch diệt nhiễm ô” tức là không nhiễm gì nữa. Bài kệ số 9 nói về cảnh giới “bất động” được Sparham chú giải là Niết bàn vô dư, nhưng Rockhill chú giải là “Niết bàn không sinh không diệt.” 

Xem mục lục