XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
55
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an              nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới,              an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tịnh giới cho              đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được thì cái              thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới cho đến              Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới,              an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tịnh giới cho              đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, thì              cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới cho đến              Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc              và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh              lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới,              an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tịnh giới cho              đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới cho đến              Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bố              thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và              vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì              bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không;              tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự              tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với              an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới              cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh,              bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế              là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an              nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc thường, hoặc              vô thường; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô              thường. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là              không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không,              pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp              không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp              không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp              không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp              không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự              tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của pháp không ngoại              cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp              không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp không ngoại              cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với              an nhẫn Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được thì              cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp không              ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt              được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng              tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không; pháp              không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn,              pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp              không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp              không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp              không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm              bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh và tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc              và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp không ngoại cho đến              pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái              lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có pháp không nội v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an              nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã.              Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không;              pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không              lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi,              pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn,              pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng,              pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể              nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh và tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, thì cái              ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp không ngoại cho              đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó              còn không có pháp không nội v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là              tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội              ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa,              pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không              không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp              không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp              không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không              không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp              không nội là không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp              không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu              vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh              của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng              thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư              vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp,              trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như              là không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi              khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế,              cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới              cho đến cảnh giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất              tư nghì ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, chơn              như chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chơn như v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có              khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh              chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp,              thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc              khổ. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không; pháp              giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình              đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu              an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,              tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ              pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không;              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế              là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,              tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ              pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không;              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Thánh đế khổ hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh              đế khổ là không; Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế              tập, diệt, đạo là không. Tự tánh của Thánh đế khổ ấy tức chẳng phải              là tự tánh; tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, Thánh đế khổ chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; Thánh đế tập, diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có Thánh đế khổ v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Thánh đế khổ hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ.              Vì sao? Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ là không; Thánh              đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.              Tự tánh của Thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              Thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc              và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập, diệt, đạo đều              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Thánh đế khổ v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả              năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Thánh đế khổ hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc              vô ngã. Vì sao? Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ là              không; Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt,              đạo là không. Tự tánh của Thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với              an nhẫn Ba-la-mật-đa này, Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập, diệt,              đạo đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có Thánh đế khổ              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu              ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Thánh đế khổ hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ              là không; Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt,              đạo là không. Tự tánh của Thánh đế khổ ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với              an nhẫn Ba-la-mật-đa này, Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được thì              cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Thánh đế tập,              diệt, đạo đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có Thánh đế              khổ v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh              kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn              tịnh lự là không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn              vô lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an              nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt              được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó, còn không có bốn tịnh lự v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng              tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc,              hoặc khổ. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là              không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng,              bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải              là tự tánh; tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng              thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có bốn tịnh lự v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an              nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là              không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng,              bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức chẳng phải              là tự tánh; tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó              còn không có bốn tịnh lự v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an              nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn tịnh lự hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh              lự là không; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô              lượng, bốn định vô sắc là không. Tự tánh của bốn tịnh lự ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an              nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn tịnh lự              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có bốn tịnh lự v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ              đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tám giải              thoát và tự tánh của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín              định thứ đệ, mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ              đệ, mười biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, tám              giải thoát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ              đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia!              Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến              xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh của tám              giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và              tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không.              Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, tám giải thoát chẳng thể nắm bắt              được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tám thắng              xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có tám giải thoát v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu              an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tám giải thoát và tự tánh              của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ              là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, tám giải thoát chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể nắm              bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó còn không có tám giải thoát v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an              nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tám giải thoát hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tám giải thoát và              tự tánh của tám giải thoát là không; tám thắng xứ, chín định thứ đệ,              mười biến xứ và tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ là không. Tự tánh của tám giải thoát ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an              nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, tám giải thoát              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đều chẳng thể              nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.              Vì sao? Vì trong đó, còn không có tám giải thoát v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả              năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc,              năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc thường,              hoặc vô thường. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ              là không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi              đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến              tám chi thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức              là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn niệm              trụ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi              có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm              lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không; bốn chánh              đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi              thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là              không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn niệm trụ chẳng              thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.              Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không; bốn              chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám              chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh              đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn niệm trụ chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó còn không có bốn niệm trụ v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn              như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,              năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh. Vì sao? Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không;              bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác,              tám chi thánh đạo và tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi              thánh đạo là không. Tự tánh của bốn niệm trụ ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn              Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này, bốn niệm trụ chẳng              thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo đều chẳng thể nắm bắt              được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có bốn niệm trụ v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu an              nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết an nhẫn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì              pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không              là không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp              môn giải thoát không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp              môn giải thoát vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với              an nhẫn Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm              bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có              khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát              không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không; pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát không ấy              tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng,              vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn Ba-la-mật-đa này,              pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải thoát vô tướng, vô              nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp môn giải              thoát không v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ              kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì pháp môn giải              thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không; pháp              môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát              không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã,              vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn              không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như              thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu an nhẫn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp môn giải thoát              không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp môn              giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không;              pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải              thoát vô tướng, vô nguyện là không. Tự tánh của pháp môn giải thoát              không ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là an nhẫn Ba-la-mật-đa. Đối với an nhẫn              Ba-la-mật-đa này, pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp môn              giải thoát vô tướng, vô nguyện đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có pháp môn giải thoát không v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu an              nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.
