Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Sắc xứ cho đến pháp xứ vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhãn giới cho đến ý giới vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Sắc giới cho đến pháp giới vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Ðịa giới cho đến thức giới vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Vô minh cho đến lão tử vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Tám giải thoát, chín định thứ lớp vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Năm nhãn, sáu thần thông vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả vô biên nên phải biết Bồ Tát ma ha tát cũng vô biên. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Khổ tập diệt đạo thánh đế vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Nội không cho đến vô tánh tự tánh không vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Chơn như cho đến bất tư nghì giới vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Ðoạn giới cho đến vô vi giới vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô biên nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Tức sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy tức Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, bạch Thế Tôn! Tôi đối thảy tất cả pháp đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ Tát Ma ha tát không thấy đâu hết, trọn chẳng thể được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa dạy răn dạy trao các Bồ Tát Ma ha tát?
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh, đều vô tự tánh. Như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh, đều vô tự tánh; các pháp cũng vậy, rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh, đều vô tự tánh.
Bạch Thế Tôn! Những gì sắc cho đến thức rốt ráo chẳng sanh. Nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc cho đến thức? Như vậy cho đến những gì Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa rốt ráo chẳng sanh. Nếu rốt ráo chẳng sanh thời gọi Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa?
Bạch Thế Tôn! Tôi đâu năng đem Bát nhã Ba la mật đa rốt ráo chẳng sanh dạy răng dạy trao Bồ Tát Ma ha tát rốt ráo chẳng sanh? Bạch Thế Tôn! Lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát Ma ha tát năng hành Vô thượng Chánh đẳng bồ đề. Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát nghe thuyết như thế tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối, tâm kia chẳng kinh chẳng e chẳng sợ, phải biết Bồ Tát Ma ha tát này năng hành Bát nhã Ba la mật đa!
Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng: Duyên cớ nào nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc? Duyên cớ nào nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên? Như vậy cho đến Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên?
Duyên cớ nào nói tức sắc uẩn cho đến thức sắc uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc? Như vậy cho đến tức Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc?
Duyên cớ nào nói tôi đối đây thảy tất cả pháp đem thất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ Tát Ma ha tát không thấy đâu hết, trọn chẳng thể được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa dạy răn dạy trao các Bồ Tát Ma ha tát?
Duyên cớ nào nói các Bồ Tát Ma ha tát chỉ có giả danh đều vô tự tánh? Duyên cớ nào nói như nói ngã thảy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh? Duyên cớ nào nói các pháp cũng vậy rốt ráo chẳng sanh, chỉ có giả danh đều vô tự tánh? Duyên cớ nào nói những gì sắc cho đến thức rốt ráo chẳng sanh. Như vậy cho đến những gì Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa rốt ráo chẳng sanh?
Duyên cớ nào nói nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi sắc cho đến thức. Như vậy cho đến nếu rốt ráo chẳng sanh thời chẳng gọi Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa? Duyên cớ nào nói tôi đâu năng đem Bát nhã Ba la mật đa rốt ráo chẳng sanh dạy răn dạy trao Bồ Tát Ma ha tát rốt ráo chẳng sanh?
Duyên cớ nào nói lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Bồ Tát Ma ha tát năng hành Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Duyên cớ nào nói Nếu Bồ Tát Ma ha tát nghe thuyết như thế, tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối, tâm kia chẳng kinh chẳng e chẳng sợ, phải biết Bồ Tát Ma ha tát này năng hành Bát nhã Ba la mật đa? Cụ thọ nay nên vì tôi diễn nói cho.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp Xá Lợi Tử rằng: Tôn giả đã hỏi duyên cớ nào nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước bất khả đắc, thời sau bất khả đắc, thời giữa bất khả đắc ấy. Xá Lợi Tử! Hữu tình vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Hữu tình không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Hữu tình xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Hữu tình vô tự tánh, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xứ cho đến ý xứ vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xứ cho đến ý xứ vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc xứ cho đến pháp xứ vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc xứ cho đến pháp xứ vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới cho đến ý giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn giới cho đến ý giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc giới cho đến pháp giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Sắc giới cho đến pháp giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc cho đến ý xúc vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Ðịa giới cho đến thức giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðịa giới cho đến thức giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Vô minh cho đến lão tử vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã ba la mật đa vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã ba la mật đa vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Tám giải thoát, chín định thứ lớp vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ lớp không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ lớp xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tám giải thoát, chín định thứ lớp vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Năm nhãn, sáu thần thông vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Năm nhãn, sáu thần thông vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Như Lai mười lực cho đến mươì tám pháp Phật bất cộng vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Khổ tập diệt đạo thánh đế vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Khổ tập diệt đạo thánh đế không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Khổ tập diệt đạo thánh đế xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Khổ tập diệt đạo thánh đế vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nội không cho đến vô tánh tự tánh không vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Chơn như cho đến bất tư nghì giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Chơn như cho đến bất tư nghì giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Chơn như cho đến bất tư nghì giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Chơn như cho đến bất tư nghì giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Ðoạn giới cho đến vô vi giới vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðoạn giới cho đến vô vi giới không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðoạn giới cho đến vô vi giới xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Ðoạn giới cho đến vô vi giới vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô sở hữu, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa không, nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa xa lìa nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc. Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô tự tánh nên nói các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa bất khả đắc.
Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì hữu tình cho đến Ðại Thừa vô sở hữu vậy. Trong xa lìa, không tự tánh, các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa đều bất khả đắc vậy.
Xá Lợi Tử! Chẳng phải vô sở hữu, hữu tình cho đến Ðại Thừa có khác. Chẳng phải không, hữu tình cho đến Ðại Thừa có khác. Chẳng phải xa lìa, hữu tình cho đến Ðại Thừa có khác. Chẳng phải vô tánh, hữu tình cho đến Ðại Thừa có khác. Chẳng phải thời trước Bồ Tát Ma ha tát có khác. Chẳng phải thời sau, Bồ Tát Ma ha tát có khác. Chẳng phải thời giữa, Bồ Tát Ma ha tát có khác.
Xá Lợi Tử! Hoặc vô sở hữu hữu tình cho đến Ðại Thừa, hoặc không hữu tình cho đến Ðại Thừa, hoặc xa lìa hữu tình cho đến Ðại Thừa, hoặc vô tự tánh hữu tình cho đến Ðại Thừa, hoặc thời trước Bồ Tát Ma ha tát, hoặc thời sau Bồ Tát Ma ha tát, hoặc thời giữa Bồ Tát Ma ha tát, tất cả như thế đều không hai không hai phần.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Các Bồ Tát Ma ha tát thời trước sau giữa đều bất khả đắc.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi duyên cớ nào nói sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Xá Lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Ðại Thừa đều như hư không. Sở dĩ vì sao? Như thái hư không, ngằn trước sau giữa đều bất khả đắc, bởi kia giữa biên đều bất khả đắc nói là hư không. Sắc uẩn cho đến Ðại Thừa cũng lại như thế, ngằn trước sau giữa đều bất khả đắc. Vi cớ sao? Vì sắc uẩn cho đến Ðại Thừa đều tánh không vậy. Trong không, ngằn trước ngằn sau ngằn giữa đều bất khả đắc, cũng bởi giữa biên đều bất khả đắc nên nói là không.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây nên tôi tác thuyết này: Sắc uẩn cho đến thức uẩn vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên. Như vậy cho đến Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa vô biên, nên phải biết Bồ Tát Ma ha tát cũng vô biên.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi duyên cớ nào tức sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy cho đến tức Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc, lìa Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc ấy.
Xá Lợi Tử! Sắc uẩn cho đến Ðại Thừa, tánh sắc uẩn cho đến Ðại Thừa không. Vì cớ sao? Vì trong tánh không sắc uẩn cho đến Ðại Thừa, sắc uẩn cho đến Ðại Thừa vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát Ma ha tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Phi sắc uẩn cho đến phi Ðại Thừa, phi sắc uẩn cho đến phi Ðại Thừa tánh không, phi sắc uẩn cho đến phi Ðại Thừa vô sở hữu bất khả đắc, nên các Bồ Tát Ma ha tát cũng vô sở hữu bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Do nhân duyên đây tôi tác thuyết này: Tức sắc uẩn cho đến thức sắc uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy cho đến tức Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa, Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc. Lìa Thanh Văn, Ðộc giác, Ðại Thừa Bồ Tát Ma ha tát vô sở hữu bất khả đắc.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Tôn giả đã hỏi duyên cớ nào nói tôi đối đây thảy tất cả pháp, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ Tát Ma ha tát không thấy đâu hết, trọn chẳng thể được, làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa dạy răn dạy trao các Bồ Tát Ma ha tát ấy.
Xá Lợi Tử! Sắc đối sắc bất khả đắc, sắc đối thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc. Thọ đối thọ bất khả đắc, thọ đối sắc tưởng hành thức cũng bất khả đắc. Tưởng đối tưởng bất khả đắc, tưởng đối sắc thọ hành thức cũng bất khả đắc. Hành đối hành bất khả đắc, hành đối sắc thọ tưởng thức cũng bất khả đắc. Thức đối thức bất khả đắc, thức đối sắc thọ tưởng hành cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xứ đối nhãn xứ bất khả đắc, nhãn xứ đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng bất khả đắc. Nhĩ xứ đối nhĩ xứ bất khả đắc, nhĩ xứ đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng bất khả đắc. Tỷ đối tỷ xứ bất khả đắc, tỷ xứ đối nhãn nhĩ thiệt thân ý xứ cũng bất khả đắc. Thiệt xứ đối thiệt xứ bất khả đắc, thiệt xứ đối nhãn nhĩ tỷ thân ý xứ cũng bất khả đắc. Thân xứ đối thân xứ bất khả đắc, thân xứ đối nhãn nhĩ tỷ thiệt ý xứ cũng bất khả đắc. Ý xứ đối ý xứ bất khả đắc, ý xứ đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân xứ cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc xứ đối sắc xứ bất khả đắc, sắc xứ đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng bất khả đắc. Thanh hương đối thanh hương xứ bất khả đắc, thanh hương đối sắc thanh hương vị xúc pháp xứ cũng bất khả đắc. Hương xứ đối hương xứ bất khả đắc, hương xứ đối sắc thanh vị xúc pháp cũng bất khả đắc. Vị xứ đối vị xứ bất khả đắc, vị xứ đối thanh hương xúc pháp xứ cũng bất khả đắc. Xúc xứ đối xúc xứ bất khả đắc, xúc xứ đối thanh hương vị pháp xứ cũng bất khả đắc. Pháp xứ đối pháp xứ bất khả đắc, pháp xứ đôi sắc thanh hương vị xúc xứ cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới đối nhãn giới bất khả đắc, nhãn giới đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng bất khả đắc. Nhĩ giới đối nhĩ giới bất khả đắc, nhĩ giới đối tỷ thiệt thân ý giới cũng bất khả đắc. Tỷ giới đối tỷ giới bất khả đắc, tỷ giới đối nhĩ thiệt thân ý giới cũng bất khả đắc. Thiệt giới đối thiệt giới bất khả đắc, thiệt giới đối nhĩ tỷ thân ý giới cũng bất khả đắc. Thân giới đối thân giới bất khả đắc, thân giới đối nhĩ tỷ thiệt ý giới cũng bất khả đắc. Ý giới đối ý giới bất khả đắc, ý giới đối nhĩ tỷ thiệt thân giới cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Sắc giới đối sắc giới bất khả đắc, sắc giới đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng bất khả đắc. Thanh giới đối thanh giới bất khả đắc, thanh giới đối sắc hương vị xúc pháp giới cũng bất khả đắc. Hương giới đối hương giới bất khả đắc, hương giới đối sắc thanh vị xúc pháp giới cũng bất khả đắc. Vị giới đối vị giới bất khả đắc, vị giới đối sắc thanh hương xúc pháp giới cũng bất khả đắc. Xúc giới đối xúc giới bất khả đắc, xúc giới đối sắc thanh hương vị pháp giới cũng bất khả đắc. Pháp giới đối pháp giới bất khả đắc, pháp giới đối thanh hương vị xúc giới cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn thức giới đối nhãn thức giới bất khả đắc, nhãn thức giới đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng bất khả đắc. Nhĩ thức giới đối nhĩ thức giới bất khả đắc, nhĩ thức giới đối nhãn tỷ thiệt thân ý thức giới cũng bất khả đắc. Tỷ thức giới đối tỷ thức giới bất khả đắc, tỷ thức giới đối nhãn nhĩ thiệt thân ý thức giới cũng bất khả đắc. Thiệt thức giới đối thiệt thức giới bất khả đắc, thiệt thức giới đối nhãn nhĩ tỷ thân ý thức giới cũng bất khả đắc. Thân thức giới đối thân thức giới bất khả đắc, thân thức giới đối nhãn nhĩ tỷ thiệt ý thức giới cũng bất khả đắc. Ý thức giới đối ý thức giới bất khả đắc, ý thức giới đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân thức giới cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc đối nhãn xúc bất khả đắc, nhãn xúc đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng bất khả đắc. Nhĩ xúc đối nhĩ xúc bất khả đắc, nhĩ xúc đối nhãn thiệt thây ý xúc cũng bất khả đắc. Tỷ xúc đối tỷ xúc bất khả đắc, tỷ xúc đối nhãn nhĩ thiệt thân ý xúc cũng bất khả đắc. Thiệt xúc đối thiệt xúc bất khả đắc, thiệt xúc đối nhãn nhĩ tỷ thân ý xúc cũng bất khả đắc. Thân xúc đối thân xúc bất khả đắc, thân xúc đối nhãn nhĩ tỷ thiệt ý xúc cũng bất khả đắc. Ý xúc đối ý xúc bất khả đắc bất khả đắc, ý xúc đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân xúc cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn nhĩ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ đối thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn nhĩ tỷ thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Thân xúc làm duyên sanh ra các thọ đối thân xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn nhĩ tỷ thiệt ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc. Ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đối ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bất khả đắc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Ðịa giới đối địa giới bất khả đắc, địa giới đối thủy hoả phong không thức giới cũng bất khả đắc. Thủy giới đối thủy giới bất khả đắc, thủy giới đối hỏa phong không thức giới cũng bất khả đắc. Hỏa giới đối hoả giới bất khả đắc, hoả giới đối thủy phong không thức giới cũng bất khả đắc. Phong giới đối phong giới bất khả đắc, phong giới đối thủy hỏa không thức giới cũng bất khả đắc. Không giới đối không giới bất khả đắc, không giới đối thủy hỏa phong thức giới cũng bất khả đắc. Thức giới đối thức giới bất khả đắc bất khả đắc, thức giới đối thủy hỏa phong không giới cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhân duyên đối nhân duyên bất khả đắc, nhân duyên đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Ðẳng vô gián duyên đối đẳng vô gián duyên bất khả đắc, đẳng vô gián duyên đối nhân duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Sở duyên duyên đối sở duyên duyên bất khả đắc, sở duyên duyên đối nhân duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên cũng bất khả đắc. Tăng thượng duyên đối tăng thượng duyên bất khả đắc, tăng thượng duyên đối nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Vô minh đối vô minh bất khả đắc, vô minh đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Hành đối hành bất khả đắc, hành đối vô minh, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Thức đối thức bất khả đắc, thức đối hành, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Danh sắc đối danh sắc bất khả đắc, danh sắc đối hành, thức, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Lục xứ đối lục xứ bất khả đắc, lục xứ đối hành, thức, danh sắc, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Xúc đối xúc bất khả đắc, xúc đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Thọ đối thọ bất khả đắc, thọ đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, ái, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Ái đối ái bất khả đắc, ái đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, thủ, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Thủ đối thủ bất khả đắc, thủ đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, hữu, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Hữu đối hữu bất khả đắc, hữu đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh lão tử cũng bất khả đắc. Sanh đối sanh bất khả đắc, sanh đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, lão tử cũng bất khả đắc cũng bất khả đắc. Lão tử đối lão tử bất khả đắc, lão tử đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bố thí Ba la mật đa đối bố thí Ba la mật đa bất khả đắc, bố thí Ba la mật đa đối tịnh giới thảy ba la mật đa cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Bát nhã Ba la mật đa đối Bát nhã Ba la mật đa bất khả đắc, Bát nhã Ba la mật đa đối bố thí Ba la mật đa thảy Ba la mật đa cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự đối bốn tĩnh lự bất khả đắc, bốn tĩnh lự đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng bất khả đắc. Bốn vô lượng đối bốn vô lượng bất khả đắc, bốn vô lượng đối bốn tĩnh lự, bốn vô sắc định cũng bất khả đắc. Bốn vô sắc định đối bốn vô sắc định bất khả đắc, bốn vô sắc định đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Tám giải thoát đối tám giải thoát bất khả đắc, tám giải thoát đối tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Tám thắng xứ đối tám thắng xứ bất khả đắc, tám thắng xứ đối tám giải thoát , chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Chín thứ đệ định đối chín thứ đệ định bất khả đắc, chín thứ đệ định đối tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ cũng bất khả đắc. Mười biến xứ đối mười biến xứ bất khả đắc, mười biến xứ đối tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn đối không giải thoát môn bất khả đắc, không giải thoát môn đối vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng bất khả đắc. Vô tướng giải thoát môn đối vô tướng giải thoát môn bất khả đắc, vô tướng giải thoát môn đối không, vô nguyện giải thoát môn cũng bất khả đắc. Vô nguyện giải thoát môn đối vô nguyện giải thoát môn bất khả đắc, vô nguyện giải thoát môn đối không, vô tướng giải thoát môn cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Năm nhãn đối năm nhãn bất khả đắc, năm nhãn đối sáu thần thông cũng bất khả đắc. Sáu thần thông đối sáu thần thông bất khả đắc, sáu thần thông cũng đối năm nhãn bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Như Lai mười lực đối Như Lai mươì lực bất khả đắc, Như Lai mười lực đối bốn vô sở úy thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến mươì tám pháp Phật bất cộng đối mười tám pháp Phật bất cộng bất khả đắc, mười tám pháp Phật bất cộng đối Như Lai mười lực thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất đối pháp vô vong thất bất khả đắc, pháp vô vong thất đối tánh hằng trụ xả cũng bất khả đắc. Tánh hằng trụ xả đối tánh hằng trụ xả bất khả đắc, tánh hằng trụ xả đối pháp vô vong thất cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí đối nhất thiết trí bất khả đắc, nhất thiết trí đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc. Ðạo tướng trí đối đạo tướng trí bất khả đắc, đạo tướng trí đối nhất thiết trí, nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc. Nhất thiết tướng trí đối nhất thiết tướng trí bất khả đắc, nhất thiết tướng trí đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Nội không đối nội không bất khả đắc, nội không đối ngoại không thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến vô tánh tự tánh không đối vô tánh tự tánh không bất khả đắc, vô tánh tự tánh không đối nội không cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Chơn như đối chơn như bất khả đắc, chơn như đối pháp giới thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến bất tư nghì giới đối bất tư nghì giới bất khả đắc, bất tư nghì giới đối chơn như thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Ðoạn giới đối đoạn giới bất khả đắc, đoạn giới đối ly giới thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến vô vi giới đối vô vi giới bất khả đắc, vô vi giới đối đoạn giới thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Khổ thánh đế đối khổ thánh đế bất khả đắc, khổ thánh đế đối tập diệt đạo thánh đế cũng bất khả đắc. Tập thánh đế đối tập thánh đế bất khả đắc, tập thánh đế đối khổ diệt đạo thánh đế cũng bất khả đắc. Diệt thánh đế đối diệt thánh đế bất khả đắc, diệt thánh đế đối khổ tập đạo thánh đế cũng bất khả đắc. Ðạo thánh đế đối đạo thánh đế bất khả đắc, đạo thánh đế đối khổ tập diệt thánh đế cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Ðà la ni môn đối đà la ni môn bất khả đắc, đà la ni môn đối tam ma địa môn cũng bất khả đắc. Tam ma địa môn đối tam ma địa môn bất khả đắc, tam ma địa môn đối đà la ni môn cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Dị sanh địa đối Dị sanh địa bất khả đắc, Dị sanh địa đối chủng tánh địa thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Như Lai địa đối Như Lai địa bất khả đắc, Như Lai địa đối Dị sanh địa thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Cực hỷ địa đối Cực hỷ địa bất khả đắc, Cực hỷ địa đối Ly cấu địa thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Pháp vân địa đối Pháp vân địa bất khả đắc, Pháp vân địa đối Cực hỷ địa thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Dự lưu đối Dự lưu bất khả đắc, Dự lưu đối Nhất lai thảy cũng bất khả đắc. Như vậy cho đến Chánh đẳng giác đối Chánh đẳng giác bất khả đắc, Chánh đẳng giác đối Dự lưu thảy cũng bất khả đắc.
Xá Lợi Tử! Bồ Tát Ma ha tát đối Bồ Tát ma ha tát bất khả đắc, Bồ Tát Ma ha tát đối Bát nhã Ba la mật đa dạy răn dạy trao cũng bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật đa đối Bát nhã ba la mật đa bất khả đắc, Bát nhã Ba la mật đa đối Bồ Tát Ma ha tát dạy răn dạy trao cũng bất khả đắc. Dạy răn dạy trao đối dạy răn dạy trao bất khả đắc, dạy răn dạy trao đối Bồ Tát Ma ha tát, Bát nhã ba la mật đa cũng bất khả đắc.
Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Những như thế thảy hoặc pháp hoặc ngã tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Do nhân duyên dây tôi tác thuyết này: Tôi đối đây thảy tất cả pháp, đem tất cả chủng, tất cả xứ, tất cả thời tìm Bồ Tát Ma ha tát không thấy đâu hết, trọn chẳng thể được. Làm sao khiến tôi đem Bát nhã Ba la mật đa dạy răn dạy trao các Bồ Tát Ma ha tát?