Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc tịnh hoặc  bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát tịnh bất tịnh, hoặc  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ tịnh bất tịnh, hãy rốt ráo  bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát tịnh  bất tịnh tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ tịnh  bất tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức  tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc không hoặc bất không tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười  biến xứ hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát  ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát không bất không, hoặc tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ không bất không, hãy rốt ráo bất khả  đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát không bất  không tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ không bất  không tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức  tám giải thoát hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc không hoặc bất  không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại  quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu tướng hoặc vô tướng  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát hữu tướng vô tướng,  hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu tướng vô tướng,  hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải  thoát hữu tướng vô tướng tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ hữu tướng vô tướng tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có,  làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến  xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu  nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám  thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải  thoát hữu nguyện vô nguyện, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười  biến xứ hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng  phải có vậy. Huống là có tám giải thoát hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ và  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu nguyện vô nguyện tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát  hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám  thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải  Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát tịch tĩnh bất  tịch tĩnh, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ tịch tĩnh  bất tịch tĩnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống  là có tám giải thoát tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ và tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng  ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc tịch  tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào  mà nói tức tám giải thoát hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư?  Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát viễn ly bất viễn ly, hoặc tám thắng  xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ viễn ly bất viễn ly, hãy rốt ráo bất  khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát viễn ly  bất viễn ly tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói  được: Tức tám giải thoát hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc  viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu vi  hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát hữu vi vô vi, hoặc  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu vi vô vi, hãy rốt ráo  bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát hữu  vi vô vi tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu vi  vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức  tám giải thoát hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa  nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch  Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát hữu lậu vô lậu, hoặc tám thắng xứ, chín thứ  đệ định, mười biến xứ hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh  chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát hữu lậu vô lậu tăng ngữ và  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu lậu vô lậu tăng ngữ.  Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc  hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức tám giải thoát hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc sanh hoặc  diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải  thoát sanh diệt, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ sanh  diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  tám giải thoát sanh diệt tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao  nói được: Tức tám giải thoát hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma  ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc sanh hoặc  diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười  biến xứ hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát  ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát thiện phi thiện, hoặc tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả  đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát thiện phi  thiện tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thiện phi  thiện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức  tám giải thoát hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thiện hoặc phi  thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại  quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát hữu tội vô tội, hoặc tám thắng  xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả  đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát hữu tội vô  tội tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu tội vô  tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám  giải thoát hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu tội hoặc vô tội  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát hữu phiền não  vô phiền não, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu  phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có  vậy. Huống là có tám giải thoát hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ và  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hữu phiền não vô phiền não  tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải  thoát hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc hữu phiền não  hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện!  Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc thế gian hoặc  xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát thế  gian xuất thế gian, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  thế gian xuất thế gian, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có  vậy. Huống là có tám giải thoát thế gian xuất thế gian tăng ngữ và tám  thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thế gian xuất thế gian tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát  hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám  thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thế gian hoặc xuất thế  gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát  Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát tạp nhiễm thanh tịnh,  hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ tạp nhiễm thanh tịnh,  hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải  thoát tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải  có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười  biến xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc thuộc  sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức  tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thuộc sanh tử hoặc  thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn!  Hoặc tám giải thoát thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hoặc tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hãy rốt ráo  bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có tám giải thoát  thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ và tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã  chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc thuộc sanh tử  hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào  mà nói tức tám giải thoát hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát ở trong  ở ngoài ở giữa hai, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ ở  trong ở ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải  có vậy. Huống là có tám giải thoát ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ  và tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ ở trong ở ngoài ở giữa  hai tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám  giải thoát hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ở trong  hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức tám giải thoát hoặc khả đắc  hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc tám giải thoát khả đắc  bất khả đắc, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ khả đắc  bất khả đắc, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống  là có tám giải thoát khả đắc bất khả đắc tăng ngữ và tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ khả đắc bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã  chẳng phải có, làm sao nói được: Tức tám giải thoát hoặc khả đắc hoặc  bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma  ha tát vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào mà nói tức  không giải thoát môn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng  vô nguyện giải thoát môn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Cụ thọ  Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn, hoặc vô tướng  vô nguyện giải thoát môn, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có  vậy. Huống là có không giải thoát môn tăng ngữ và vô tướng vô nguyện  giải thoát môn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói  được: Tức không giải thoát môn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc  thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô  nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn thường vô  thường, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn thường vô thường, hãy rốt  ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải  thoát môn thường vô thường tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn  thường vô thường tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói  được: Tức không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc  vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại  quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc lạc hoặc khổ tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc  lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc  không giải thoát môn lạc khổ, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn lạc  khổ, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  không giải thoát môn lạc khổ tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát  môn lạc khổ tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được:  Tức không giải thoát môn hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát  Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát  môn ngã vô ngã, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn ngã vô ngã, hãy  rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải  thoát môn ngã vô ngã tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn ngã  vô ngã tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức  không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là  Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất  tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không  giải thoát môn tịnh bất tịnh, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn  tịnh bất tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống  là có không giải thoát môn tịnh bất tịnh tăng ngữ và vô tướng vô nguyện  giải thoát môn tịnh bất tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có,  làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh  hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện!  Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc không hoặc  bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải  thoát môn hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn không bất không, hoặc vô  tướng vô nguyện giải thoát môn không bất không, hãy rốt ráo bất khả đắc,  vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải thoát môn không bất  không tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn không bất không tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải  thoát môn hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức không giải thoát môn hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu tướng  hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc  không giải thoát môn hữu tướng vô tướng, hoặc vô tướng vô nguyện giải  thoát môn hữu tướng vô tướng, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng  phải có vậy. Huống là có không giải thoát môn hữu tướng vô tướng tăng  ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn hữu tướng vô tướng tăng ngữ.  Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát  môn hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là  Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức không giải thoát môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu nguyện  hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn!  Hoặc không giải thoát môn hữu nguyện vô nguyện, hoặc vô tướng vô nguyện  giải thoát môn hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh  chẳng phải có vậy. Huống là có không giải thoát môn hữu nguyện vô nguyện  tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn hữu nguyện vô nguyện tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải  thoát môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát,  tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch  tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát  môn hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh,  hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hãy rốt  ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải thoát  môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát  môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm  sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch  tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn  hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc  viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng  vô nguyện giải thoát môn hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn viễn ly  bất viễn ly, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn viễn ly bất viễn  ly, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  không giải thoát môn viễn ly bất viễn ly tăng ngữ và vô tướng vô nguyện  giải thoát môn viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải  có, làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc viễn ly hoặc bất  viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát  môn hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc hữu  vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện  giải thoát môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn hữu vi vô vi, hoặc vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì  tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải thoát môn hữu vi vô vi  tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn hữu vi vô vi tăng ngữ.  Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát  môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô  nguyện giải thoát môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha  tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không  giải thoát môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát  môn hữu lậu vô lậu, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn hữu lậu vô  lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  không giải thoát môn hữu lậu vô lậu tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải  thoát môn hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm  sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ  là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu lậu  hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi  lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc sanh hoặc diệt  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn  hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế  Tôn! Hoặc không giải thoát môn sanh diệt, hoặc vô tướng vô nguyện giải  thoát môn sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có không giải thoát môn sanh diệt tăng ngữ và vô tướng vô  nguyện giải thoát môn sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có,  làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ  là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc sanh  hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại  quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc thiện hoặc phi  thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải  thoát môn hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát  ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn thiện phi thiện, hoặc vô  tướng vô nguyện giải thoát môn thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc,  vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải thoát môn thiện phi  thiện tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn thiện phi thiện tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải  thoát môn hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức không giải thoát môn hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu tội hoặc vô  tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không  giải thoát môn hữu tội vô tội, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn  hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có không giải thoát môn hữu tội vô tội tăng ngữ và vô tướng vô  nguyện giải thoát môn hữu tội vô tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng  phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc hữu tội hoặc vô  tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn  hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc hữu  phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát  môn hữu phiền não vô phiền não, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn  hữu phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải  có vậy. Huống là có không giải thoát môn hữu phiền não vô phiền não tăng  ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát môn hữu phiền não vô phiền não  tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không  giải thoát môn hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc hữu phiền não hoặc  vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi  lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc thế gian hoặc  xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện  giải thoát môn hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn thế gian xuất  thế gian, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn thế gian xuất thế gian,  hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không  giải thoát môn thế gian xuất thế gian tăng ngữ và vô tướng vô nguyện  giải thoát môn thế gian xuất thế gian tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng  phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc thế gian hoặc  xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải  thoát môn hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát  vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải  thoát môn hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma  ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh  tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải  thoát môn tạp nhiễm thanh tịnh, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn  tạp nhiễm thanh tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có  vậy. Huống là có không giải thoát môn tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ và  vô tướng vô nguyện giải thoát môn tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng  ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát môn  hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ  là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà  nói tức không giải thoát môn hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc  thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát  ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn thuộc sanh tử thuộc Niết bàn,  hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn thuộc sanh tử thuộc Niết bàn,  hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không  giải thoát môn thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ và vô tướng vô  nguyện giải thoát môn thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ  đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát môn hoặc  thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô  tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn  tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán  nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc  ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô nguyện  giải thoát môn hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn ở trong  ở ngoài ở giữa hai, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn ở trong ở  ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có không giải thoát môn ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ và  vô tướng vô nguyện giải thoát môn ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ.  Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức không giải thoát  môn hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha  tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc ở trong hoặc ở ngoài  hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện!  Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức không giải thoát môn hoặc khả đắc  hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, vô tướng vô  nguyện giải thoát môn hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải  Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc không giải thoát môn khả đắc bất  khả đắc, hoặc vô tướng vô nguyện giải thoát môn khả đắc bất khả đắc, hãy  rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có không giải  thoát môn khả đắc bất khả đắc tăng ngữ và vô tướng vô nguyện giải thoát  môn khả đắc bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao  nói được: Tức không giải thoát môn hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc khả  đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Lại nữa,  Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn tăng ngữ chẳng  phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma  ha tát ư? Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn, hoặc  tam ma địa môn, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có đà la ni môn tăng ngữ và tam ma địa môn tăng ngữ. Tăng ngữ  đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc thường hoặc  vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc  thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế  Tôn! Hoặc đà la ni môn thường vô thường, hoặc tam ma địa môn thường vô  thường, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  đà la ni môn thường vô thường tăng ngữ và tam ma địa môn thường vô  thường tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà  la ni môn hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức  tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát  vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn  hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa  môn hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế  Tôn! Hoặc đà la ni môn lạc khổ, hoặc tam ma địa môn lạc khổ, hãy rốt ráo  bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đà la ni môn lạc  khổ tăng ngữ và tam ma địa môn lạc khổ tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng  phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ  là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức đà la ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát, tức tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát  Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn ngã vô ngã, hoặc tam ma địa  môn ngã vô ngã, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có đà la ni môn ngã vô ngã tăng ngữ và tam ma địa môn ngã vô  ngã tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la  ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma  địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc tịnh hoặc  bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc  tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn!  Hoặc đà la ni môn tịnh bất tịnh, hoặc tam ma địa môn tịnh bất tịnh, hãy  rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đà la ni  môn tịnh bất tịnh tăng ngữ và tam ma địa môn tịnh bất tịnh tăng ngữ.  Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn hoặc  tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc  tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện!  Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc không hoặc bất  không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc  không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế  Tôn! Hoặc đà la ni môn không bất không, hoặc tam ma địa môn không bất  không, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  đà la ni môn không bất không tăng ngữ và tam ma địa môn không bất không  tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni  môn hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma  địa môn hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc hữu tướng  hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn  hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư?  Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn hữu tướng vô tướng, hoặc tam ma địa môn  hữu tướng vô tướng, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy.  Huống là có đà la ni môn hữu tướng vô tướng tăng ngữ và tam ma địa môn  hữu tướng vô tướng tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói  được: Tức đà la ni môn hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là  Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức đà la ni môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng  ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn hữu  nguyện vô nguyện, hoặc tam ma địa môn hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo  bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đà la ni môn hữu  nguyện vô nguyện tăng ngữ và tam ma địa môn hữu nguyện vô nguyện tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn  hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma  địa môn hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc tịch tĩnh  hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa  môn hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hoặc tam  ma địa môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh  chẳng phải có vậy. Huống là có đà la ni môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng  ngữ và tam ma địa môn tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã  chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn hoặc tịch tĩnh hoặc  bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc tịch  tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc viễn ly hoặc  bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn  hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư?  Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn viễn ly bất viễn ly, hoặc tam ma địa môn  viễn ly bất viễn ly, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có  vậy. Huống là có đà la ni môn viễn ly bất viễn ly tăng ngữ và tam ma địa  môn viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm  sao nói được: Tức đà la ni môn hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là  Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng  ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa  nào mà nói tức đà la ni môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải  Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ  chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn hữu vi vô  vi, hoặc tam ma địa môn hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh  chẳng phải có vậy. Huống là có đà la ni môn hữu vi vô vi tăng ngữ và tam  ma địa môn hữu vi vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm  sao nói được: Tức đà la ni môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức  đà la ni môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ  tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn hữu lậu vô lậu, hoặc  tam ma địa môn hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng  phải có vậy. Huống là có đà la ni môn hữu lậu vô lậu tăng ngữ và tam ma  địa môn hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao  nói được: Tức đà la ni môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát  Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ  tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói  tức đà la ni môn hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha  tát, tức tam ma địa môn hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát  Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn sanh diệt, hoặc tam ma địa  môn sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống  là có đà la ni môn sanh diệt tăng ngữ và tam ma địa môn sanh diệt tăng  ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni môn  hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn  hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện!  Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc thiện hoặc phi  thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn hoặc  thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế  Tôn! Hoặc đà la ni môn thiện phi thiện, hoặc tam ma địa môn thiện phi  thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  đà la ni môn thiện phi thiện tăng ngữ và tam ma địa môn thiện phi thiện  tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni  môn hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma  địa môn hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện  Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đà la ni môn hoặc hữu tội  hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma địa môn  hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch  Thế Tôn! Hoặc đà la ni môn hữu tội vô tội, hoặc tam ma địa môn hữu tội  vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có  đà la ni môn hữu tội vô tội tăng ngữ và tam ma địa môn hữu tội vô tội  tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đà la ni  môn hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tam ma  địa môn hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
