Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

 

 

 

Tổ thứ Hai Mươi Tám: Đại Sư  Bồ-Đề-Đạt-Ma

(Bodhidharma)

 

Tổ, nam Thiên Trúc Hương Chí vương tam tử dã, tính sát đế lị. Sơ, vương cung dưỡng Bát-Nhã-Đa-La, nhân thí dĩ bảo châu. Tổ phát minh tâm địa, Bát-Nhã toại phó pháp. Kệ viết: “Tâm địa sanh chư chủng, nhân sự phục sanh lý; quả mãn bồ đề viên, hoa khai thế giới khởi.” Tổ đắc pháp cửu chi, niệm Chấn-Đán duyên thục, hàng hải lai Lương. Để Quảng, thứ sử Tiêu Ngang, biểu văn Vũ Đế. Nãi chiếu kiến, vấn: “Như hà thị thánh đế đệ nhất nghĩa?” Tổ viết: “Khuếch nhiên vô thánh.” Viết: “Đối trẫm giả thùy?” Tổ viết: “Bất thức.” Đế bất khế. Tổ do thử độ giang, thiệp Ngụy, chí Tung. Thiểu hậu, đắc Thần Quang, thọ dĩ đại pháp. Nãi giai đồ vãng Vũ môn Thiên Thánh tự, tọa hóa, táng Hùng Nhĩ sơn. Đường Đại tông thụy ‘Viên Giác Đại Sư’, tháp viết Không Quán. 

Tổ là người miền nam Thiên trúc và là con thứ ba của vua Hương Chí, thuộc giòng sát-đế-lị. Nhân khi vua cúng dường tôn giả Bát-Nhã-Đa-La có sự việc bảo châu được đưa ra hỏi thử. Tổ phát minh tâm địa, tôn giả Bát-Nhã bèn truyền pháp cho Tổ và đọc kệ như sau:  

Đất tâm sanh các giống

Nhân sự lại sanh lý

Quả chín bồ đề tròn

Hoa nở thế giới sanh 

Một thời gian lâu sau ngày được pháp, Tổ nghĩ cơ duyên hoằng pháp với Trung Hoa đã tới, Ngài đi đường biển qua, nhằm đời nhà Lương. Khi đặt chân lên đất Quảng, thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu báo tin lên Võ Đế. Đế hạ chiếu mời về Kinh đô. Đế hỏi: “Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?” Tổ nói: “rổng rang không thánh.” Hỏi: “Đối diện với trẫm là ai?” Tổ đáp: “Không biết.” Thấy vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ đi sang sông, qua đất Ngụy, rồi đến núi Tung sơn. Ít lâu sau, gặp đại sư Thần Quang, Tổ truyền lại đại pháp. Sau đó, Ngài cùng đồ chúng đến chùa Thiên thánh tại Vũ Môn. Ngài ngồi yên thị tịch và được an táng trong núi Hùng Nhĩ. Đường Đại tông ban thụy hiệu của Ngài là “Viên Giác Đại Sư”, tháp hiệu là Không Quán.  

Tán viết: 

Chấn Đán sơ lai

Đối trẫm bất thức

Khoa cữu hân phiên

Sao không xuất huyết

Đắc đoạn tý nhân

Hùng phong lộ tuyệt

Phân tủy phân bì

Sương thượng gia tuyết[1] 

              Dịch:

Chấn Đán mới đến

Đối trẫm không biết

Vết cũ lật ngược

Gõ trống (rỗng) xuất huyết

Gặp kẻ chặt tay

Núi Hùng hết lối

Chia tủy chia da

Trên sương thêm tuyết 

 

Hoặc thuyết kệ viết:

 

Chấn Đán duyên thục Đạt-Ma lai

Đối trẫm bất thức cơ vị cai

Thần Quang Hùng Nhĩ quỵ cửu tải

Huệ Khả tích tuyết tý độc tài

Dĩ tâm ấn tâm phó đại pháp

Sơ tổ nhị tổ tục mạng mạch

Lục thứ thọ hại hào vô tổn

Chích lý tây quy lưu vĩnh hoài[2] 

                    Dịch:

 

Đủ duyên sơ Tổ qua Đông độ

Trước trẫm là ai vua chẳng ngộ

Thần Quang Hùng Nhĩ quỳ chín năm

Huệ Khả chặt tay đầu đội tuyết

Pháp lớn truyền trao tâm ấn tâm

Huệ mạng từ Sơ đến Nhị Tổ

Ám hại sáu lần chẳng mảy may

                                    Chiếc giầy để lại ngàn năm nhớ

 

Ghi chú của ban biên soạn: Tổ sư Đạt-Ma lại là Sơ Tổ của dòng Trung Quốc, do đó để quý vị độc giả có một cái nhìn suốt tận cội nguồn đối với lịch sử truyền đăng của chư Tổ, ở tập này chỉ đăng phần chánh văn, còn phần giảng bằng bạch thoại sẽ được đăng trong tập 2 của Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (Thiền Tông Sơ kỳ Tổ Sư).


 


[1]震旦初來 對朕不識 窠臼掀翻 敲空出血
得斷臂人 熊峰路絕 分髓分皮 霜上加雪

 

[2] 震旦緣熟達摩來 對朕不識機未賅
神光熊耳跪九載 慧可積雪臂獨裁
以心印心付大法 初祖二祖續命脈
六次受害毫無損 隻履西歸留永懷

 

Xem mục lục