Bài Viết (49)


Xem mục lục

(Tánh giác đại quang minh tạng, các pháp như huyễn và đại bi được phân tích rất rõ trong bài viết này và cách thực hành nó trong tu hành khi đã ngộ tánh viên giác)

KINH

Thiện nam tử! Nếu các Bồ tát ngộ được tánh Viên Giác thanh tịnh, thì y nơi tâm giác thanh tịnh này mà biết tâm thức cùng căn trần đều do huyễn hóa, bèn khởi quán huyễn để trừ các huyễn, biến hiện các hạnh huyễn mà khai hóa chúng sanh như huyễn. Do khởi quán huyễn mà bên trong phát ra đại bi khinh an.
Tất cả Bồ tát theo đây khởi hạnh quán huyễn, lần lần tăng tiến. Ban đầu người quán huyễn chưa đồng với cảnh huyễn, chưa đồng với hành động quán huyễn, sau thì cả ba đều là huyễn, do đó tướng huyễn được lìa dứt vĩnh viễn. Diệu hạnh tu quán của các Bồ tát này được làm cho viên mãn, như đất làm cho mầm cây tăng trưởng.
Phương tiện này gọi là Tam ma bát đề (Quán).

GIẢNG GIẢI

Chương Phổ Nhãn nói: “Ví như ngọc ma ni thanh tịnh ánh chiếu ra năm màu tùy mỗi phương mà hiện, thế nhưng những người ngu si không biết, thấy ngọc ma ni có năm màu. Cũng như vậy, tánh Viên Giác thanh tịnh ứng hiện ra nơi thân tâm tùy theo mỗi loại, thế mà người si mê lại cho rằng Viên Giác thanh tịnh thật có thân tâm cũng như vậy, do đó chẳng thể xa lìa huyễn hóa”.
Nếu thấy được thân tâm và thế giới chính là sự ánh chiếu ra, ứng hiện ra của tâm Viên Giác bổn lai thanh tịnh theo duyên nghiệp của mỗi người, vì thế thân tâm và thế giới là ảnh hiện, vô tự tánh, bất khả đắc, vô sở hữu như hoa đốm giữa hư không, bèn ngay đó giải thoát. Với một Bồ tát, ngay khi ấy, thân tâm của vị ấy trở thành Hóa thân để làm việc trong thế giới như huyễn này.

Cái đặc tính ‘ánh chiếu ra’, ‘ứng hiện ra’ các tướng huyễn ấy, là phương diện ‘chiếu’, ‘quán’ của tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác là Đại quang minh tạng, tạng ánh sáng này vốn vô tướng, là nền tảng cho mọi chiếu hiện thành các tướng như huyễn của tất cả chúng sanh. Như thế, muốn tùy thuận tánh Giác thì phải xuyên qua các bóng hình như huyễn này để trực tiếp thấy nền tảng của chính chúng là ánh sáng của tánh Giác. Muốn không mê mờ, trụ lại trong các tướng như huyễn mà xuyên qua chúng, phải thấy thực sự chúng là như huyễn, tức là phải quán thấy chúng là huyễn, là những chiếu hiện như huyễn trên nền tảng ánh sáng căn bản bất động. Chúng ta mê mờ chạy theo các bóng trong gương mà không thấy gương đâu cả. Muốn thấy gương thì phải xuyên qua các bóng, thấy rõ bóng là như huyễn, có đến có đi, trong khi gương thì bất động. Ở trong tánh Giác, các tướng đều như huyễn, vậy thì muốn ở trong nền tảng tánh Giác, phải thấy các tướng là như huyễn.
Căn, trần, thức duyên sanh từ những cái huyễn, có cũng là do huyễn hóa. Như thế thân tâm và thế giới, chúng sanh, đều như huyễn. Phải thấy tính chất thực sự của chúng là huyễn. Người tu hành quán tất cả là huyễn để trở lại tánh Giác. Không những tâm quán huyễn, mà thân khẩu còn biến ra các hạnh huyễn để độ chúng sanh như huyễn. Như thế toàn thân, khẩu, tâm, và thế giới, chúng sanh toàn bộ đều nằm trong quán huyễn. Có huyễn toàn bộ thì tánh Giác mới có thể được chứng ngộ toàn bộ.

Khi dần dần quán thấy được huyễn, bèn có đại bi khinh an. Pháp Chỉ thì nói là “phát ra tịch tĩnh khinh an”, pháp Chỉ Quán đồng thời thì nói “phát ra tịch diệt khinh an”, pháp Quán Huyễn thì nói “phát ra đại bi khinh an”.Tại sao quán huyễn lại đi liền với đại bi? Khi bắt đầu quán thấy được huyễn, hành giả mới thấy rằng bao lâu nay chúng sanh vẫn khổ đau trong cảnh huyễn, lại tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ…. để càng tạo thêm nghiệp mà kéo dài cảnh huyễn không biết ngày nào ra.
Sự thật thứ nhất của đạo Phật là Khổ đế, tức là ‘bất toại nguyện’. Sở dĩ bất toại nguyện vì không thực, không bền vững, vì bản chất là huyễn. Thế nhưng chúng sanh cứ chạy theo huyễn để rồi bất toại nguyện, lại gây thêm nghiệp xấu để khổ đau cho mình cho người mà không hề biết sanh tử là huyễn. Thấy như vậy tức thì có lòng thương xót, lòng đại bi. Cho nên càng quán huyễn thì lòng bi càng lớn mạnh. Quán huyễn và đại bi tỷ lệ thuận như vậy.
Pháp quán huyễn là: ban đầu quán thấy cảnh tướng đối tượng là huyễn, rồi đến phương tiện tu hành là hành động quán huyễn cũng huyễn, cuối cùng người quán huyễn cũng là huyễn. Sự quán huyễn cũng giống như người quán Không mà thường được gọi là ‘ba luân không’: đối tượng là Không, hành động giữa đối tượng và chủ thể là Không, và cuối cùng chủ thể cũng Không. Càng quán như huyễn thì càng an trụ vào tánh tịch tĩnh của tánh Giác. Như vậy Quán không lìa Chỉ.

Nhưng tại sao có huyễn để quán huyễn là sự trở về vói tánh Giác thanh tịnh bổn nguyên? Từ vô thủy đến vô chung, chỉ có Đại quang minh tạng của tánh Viên Giác. Đây là một tạng ánh sáng không có trung tâm, không có thân tâm và thế giới: “thân tâm tịch diệt, bình đẳng suốt ba thời, viên mãn khắp mười phương, tùy thuận bất nhị”. Thế mà, kể từ khi có con người với cọng nghiệp và biệt nghiệp của họ, thế giới bắt đầu được phóng chiếu ra qua cọng nghiệp và biệt nghiệp ấy. Thế giới được phóng chiếu ra, dĩ nhiên dựa trên ánh sáng nền tảng là Đại quang minh tạng, qua một trung tâm lớn là cọng nghiệp của loài người và các trung tâm nhỏ ở trong đó là biệt nghiệp của từng người. Từ đây có thế giới, có chúng sanh, có tham sân si, có vui buồn, ghét giận…. là kết quả của vô số trung tâm có ra là do vọng tưởng dệt thành. Tất cả mọi cái có ấy đều như huyễn vì được phóng chiếu ra từ vô số nghiệp thức con người. Luận Đại thừa Khởi Tín nói: “Tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt”.

Thế nên, khi tướng nhơ của huyễn được lìa dứt vĩnh viễn thì Đại quang minh tạng hay là tánh Giác không còn phiền não chướng và sở tri chướng nên hoàn toàn lộ bày. Như khi ra khỏi được cái thấy chỉ có những hình bóng thì thấy ra mặt gương trong sáng bổn nguyên thanh tịnh. Và một khi biết mặt gương sáng thì các bóng tuy có, nhưng như huyễn. Một khi biết huyễn, thì ngay nơi tướng huyễn người ta vẫn thấy nền tảng của nó là ánh sáng của tánh Giác hay Đại quang minh tạng. Đây là sự giải thoát của Bồ tát: không cần dẹp tất cả các bóng để thấy gương, mà thấy được ngay nơi bóng là gương, ngay nơi tướng huyễn là ánh sáng vốn tự giải thoát và làm cho các tướng được tự giải thoát vì chúng là như huyễn. Không cần hủy hoại tất cả các sắc để thấy tánh Không, mà ngay nơi sắc là tánh Không: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc, Sắc tức là Không, Không tức là sắc”.

Sự tu quán huyễn này lần lần tăng tiến cho đến khi viên mãn, như đất làm cho mầm cây tăng trưởng. Như nơi một mặt gương, sự thấy các bóng trong gương là như huyễn càng lớn rộng thì mặt gương hiện ra càng lớn rộng, bởi vì bóng ở đâu thì gương ở ngay đó.

(Trích trong Kinh Viên Giác Lược Giảng, tác giả Đương Đạo, nxb Thiện Tri Thức)

Xem mục lục
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,235
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,675
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,571
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,344
Chùa Việt
Sách Đọc