1/ Quét sân chùa
Tiếng đại hồng chung vang lên trong không gian tĩnh mịch. Trên tường, đồng hồ cũng vừa điểm bốn tiếng. Cảnh nội tự Vĩnh Nghiêm chuyển mình thức giấc sau một đêm dài yên nghỉ. Chúng Tăng an cư kiết hạ chuẩn bị vân tập Trai đường niệm Phật Cảnh Sách.
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện. Gió nhè nhẹ thổi, không khí buổi sáng thật trong lành. Cây bông sứ cạnh chân cầu thang đưa mùi thơm dìu dịu. Cảnh trí nội tự thật tuyệt đẹp. Tôi dừng lại để thưởng thức vài phút rồi tiến lên sân thượng. Trước mắt tôi bây giờ là những chiếc lá vàng nằm rải rác bừa bãi đó đây, phần lớn là lá si, lá hoa lan và lá điệp. Tôi bắt tay vào việc ngay và chỉ hơn nửa giờ quét dọn, sân hành lang trở lại sạch sẽ quang đãng như cũ. Cứ thế, mỗi buổi sáng tôi quét dọn sạch sẽ, chiều tối rác lá lại bừa bãi. Do vậy, tôi phải quét dọn hàng ngày.
Sáng nay, trong lúc làm việc tôi chợt nhớ đến câu chuyện ngài Châu Lợi Bàn Ðặc. Do vì căn cơ ám độn học trước quên sau, ngài được Ðức Phật dạy cho hai chữ “Tảo tuệ” để làm công án tu tập. Sau khi thấu triệt và thực hành rốt ráo công án này, Châu Lợi Bàn Ðặc đã quét sạch phiền não si ám và chứng ngộ Thánh quả. Bỗng bài kệ của ngài Thần Tú ngân vang trong ký ức tôi:
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Thường thường siêng lau chùi
Chớ để nhiễm trần ai.
Phải chăng mỗi người chúng ta là một ngôi chùa? Nếu biết dùng “Tảo tuệ” quét sạch các rác rưởi phiền não, tham, sân, si v.v... ra khỏi tâm địa của mình thì không những trang nghiêm ngôi chùa tự thân, mà còn là chỗ nương tựa, quy kính cho cả Trời, người.
Boong... boong... boong...
Tiếng chuông báo tới giờ điểm tâm sáng vang lên. Tôi vội vã hốt rác vào giỏ. Trước khi xuống lầu, tôi đứng lại ngắm ngôi chùa một lần nữa. Nhìn toàn bộ cảnh trí trang nghiêm thanh tịnh, tôi cảm nghĩ: Một ngôi chùa dù lối kiến trúc bên ngoài có tráng lệ bao nhiêu, mà bên trong rêu phủ nhện giăng, nhang lạnh khói tàn chắc chắn sẽ không gây cho du khách những cảm tình lưu luyến sau khi tham quan vãn cảnh. Cũng thế, nếu mỗi người chúng ta chỉ biết trau chuốt trang điểm bên ngoài cho xinh đẹp, mà không lo gột rửa nội tâm, thì chẳng qua chỉ là lớp sơn hào nhoáng che đậy sự ruỗng mục bên trong mà thôi.
Gió vẫn nhè nhẹ thổi. Mùi hương sứ thoang thoảng trong không gian. Tôi cầm chổi thong thả bước xuống cầu thang, vừa đi vừa ngâm bài kệ:
Siêng quét dọn sân chùa
Mỗi ngày phước huệ sanh
Tuy chưa có khách đến
Nhưng cũng có Thánh đi.
***
2/ Hồi chuông báo tử
Reng... Reng... Reng...
Ðang chập chờn trong giấc ngủ mỏi mệt sau khi từ bệnh viện Chợ Rẫy trở về, chợt nghe tiếng chuông điện vang rền phía trước cửa chùa, tôi liền bật người ngồi dậy, linh tính báo cho biết một biến cố kinh hoàng sẽ xảy đến với mình.
Dòng ký ức...
Một hôm vừa đi học về đến cổng chùa, con liền nhận được lá thư ba gởi. Lòng hồi hộp, con bước vội vào phòng và bóc lá thư ra xem. Con lâng lâng sung sướng khi đọc từng dòng chữ yêu thương, từng ý nghĩ hướng thượng xuất trần của ba mà tưởng đó là một giấc mơ. Ba ơi! Ðã từ lâu con hằng mong ước và khuyến khích ba hướng tâm về lý tưởng giải thoát, thế nhưng mọi sự cố gắng của con đều bất lực trước sức mạnh lợi danh cuộc đời. Hôm nay, bỗng nhận được tin ba quyết chí sẽ từ bỏ thế sự, nguyện sống đời phạm hạnh thiêng liêng. Con vui mừng cảm động biết bao. Nhưng...
Thời gian cứ âm thầm lặng lẽ trôi qua. Ðã mấy mùa sen nở và bao cánh nhạn đưa thư, con chỉ nhận những lời hồi âm của ba với những từ ngữ “bận” “kẹt”, “chưa giải quyết xong”... Con rất thông cảm đợi chờ và luôn thúc giục ba hãy đại hùng đại lực cắt đứt trần duyên, dũng tiến bước lên con đường xuất gia giải thoát. Con vẫn hy vọng một ngày không xa, cha con ta sẽ sum họp dưới một mái chùa, cùng tắm mình trong ánh từ quang của Ðức Phật, cùng khích lệ nhau đi suốt lộ trình giác ngộ tâm linh. Nhưng ba ơi! Chùm bọt trên biển cả ai hay phút giây tan vỡ? Dây đằng bên bờ sông ai biết lở lúc nào? Thân tứ đại sinh có hạn, tử vô kỳ biết đâu mà chờ với
đợi? Rồi, một hôm con bàng hoàng đau đớn khi nghe tin ba đau nặng, bệnh trạng mỗi lúc một trở nên nguy cấp. Ngày ba được chuyển lên bệnh viện Chợ Rẫy chữa trị, hai cha con chỉ còn hiểu nhau qua đôi mắt. Trong ánh mắt ba chứa đầy nuối tiếc; trong ánh mắt con tràn ngập đau thương. Ba nằm nhìn con chăm chú muốn tâm sự thật nhiều, nhưng không làm sao thốt được nên lời. Trong phút giây im lặng thiêng liêng này, con chợt nghe tiếng lòng của ba qua từng cơn nấc nhỏ, rồi từng giọt, từng giọt lệ tràn ra hố mắt, lăn dài trên gò má nhô xương. Con chết lặng cả người, cúi đầu nuốt lệ tôn trọng sự trở về thầm kín của ba mà trong lòng như đứt ruột xé gan.
Thế mà giờ này...
Reng... Reng... Reng...
Tôi bước vội ra mở cửa phòng và đoán được những gì đã xảy ra trong lúc ngoài trời còn đầy ánh sao khuya. Tôi đứng im lặng ngậm ngùi than cho lẽ sinh ly tử biệt, khi nghe tin người cha yêu quý đã ra đi không hẹn ngày trở lại.
“Ô hô! Tam thốn khí tại thiên ban dụng
Nhất đán vô thường vạn sự hưu” ([1])
Thấm thoát đã ba Thu trôi qua, cứ mỗi lần nghe tiếng chuông điện reo, tôi lại giật mình kinh hãi, nhớ đến biến cố đau thương nhất đời mình. Ôi! Tiếng chuông báo tử, tiếng chuông cắt đứt tình phụ tử thiêng liêng, tiếng chuông vang vọng cảnh tỉnh hồn ai đang còn đắm say trong mộng ảo ái hà, hãy mau mau:
Trần duyên sớm rũ lên thuyền giác
Nấn ná vô thường một kiếp qua.
3/ Cảm nghĩ từ một pho tượng
Ðược tặng một pho tượng chú tiểu ngồi tựa mình ngủ gục trên chiếc mõ, tôi thích quá. Cái nét mặt ngây thơ hồn nhiên của chú đã mau chóng hấp dẫn tôi say mê ngắm nhìn. Trong lúc thưởng thức tôi tự hỏi tại sao mình lại cảm xúc một tác phẩm nghệ thuật nhanh đến thế, trong khi trình độ nhận thức của mình còn non kém? Theo tôi hiểu, một tác phẩm văn học cũng như một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, không phải ai cũng cảm thụ hết giá trị của nó, mà còn đòi hỏi ở trình độ hiểu biết của mỗi cá nhân. Nỗi băn khoăn ấy đã được văn hào Nguyễn Du thốt lên cách đây gần hai thế kỷ:
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” ([2])
Có cùng độ rung với tác giả, người đọc mới thâm nhập tác phẩm một cách trọn vẹn được. Ðiều mà các cụ ngày xưa đã nói: “Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, hoặc thuật ngữ ngày nay là “Cùng một tần số”.
Về những điểm đó có lẽ tôi chưa đủ điều kiện để cảm thụ một tác phẩm nghệ thuật. Mà ở đây, khi nhìn pho tượng tôi như người đánh mất vật báu nay bỗng gặp lại. Phải chăng khi sức khỏe suy kém đi người ta mới thấy sức khỏe là quý? Và khi giấc ngủ bất an người ta mới trân trọng một giấc ngủ bình an!
Chú tiểu với đôi má phúng phính nổi trên gương mặt tròn trịa, hai mắt nhắm kín, đầu nghiêng bên phải gác trên chiếc mõ. Với tư thế này có lẽ trong lúc tụng kinh, vì buồn ngủ chịu hết nổi, chú đã bỏ dùi xuống và nhanh chóng “thâu thần nhập định”. Mặc cho thế sự thăng trầm, dòng đời trôi chảy; mặc cho chú chuột nhắt đang gặm túi áo mình, chú cứ tha hồ mà ngủ, ngủ một cách trọn vẹn. Trên gương mặt không một nét ưu tư phiền bận về những gì đã và đang xảy ra chung quanh mình. Thật sung sướng biết bao một giấc ngủ an lành.
Ăn và ngủ là hai nhu cầu tất yếu của nhân loại. Cho nên ngủ không phải là cái gì xa lạ với con người. Tuy nhiên, để có được một giấc ngủ bình an không phải dễ. Vì giấc ngủ ngoài chức năng quân bình cơ thể sau một ngày hoạt động, nó còn phản ánh ước vọng và hành động của con người khi thức. Do vậy, người ta không thể có được giấc ngủ an khi trong tâm chất chứa toàn những điều bất an. Cái hiện tượng trằn trọc, những cơn ác mộng hãi hùng trong giấc ngủ là kết quả đương nhiên của vọng tâm điên đảo, thất tình lục dục. Ðể được tự tại trong khi thức, an lành trong giấc ngủ, phương pháp tuyệt diệu nhất là “Viễn ly điên đảo mộng tưởng”. Bấy nhiêu thôi. Chỉ sáu chữ đó nếu thực hành đến nơi đến chốn thì cái “cứu cánh Niết Bàn” chẳng còn xa tít trên chín từng mây xanh nữa. Vậy mà mấy ai là người có đủ nghị lực để “Viễn ly điên đảo” trong cái thế giới đầy cám dỗ và đảo điên này?
Chẳng lẽ chỉ có pho tượng chú tiểu ngủ gục trên chiếc mõ?
4/ Một cử chỉ khó quên
Như mọi Chủ nhật, sáng nay đang làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, tôi nhìn ra cửa và thấy Hòa thượng Thích Thanh Kiểm cùng với một vị sư người Nhật từ trong nhà khách của Trường Cơ bản Phật học bước ra, theo sau là một đoàn người. Tôi nhận ra ngay đây là phái đoàn Phật giáo Nhật Bản sang thăm Việt Nam nhân dịp lễ Phật Ðản 2533 vừa qua. Thấy họ đang tiến về phía mình, tôi đoán là họ sẽ ghé vào thăm Thư viện nên đứng dậy chuẩn bị đón tiếp.
Ðúng như dự đoán, tôi ra chào đón và hướng dẫn đoàn vào tham quan Thư viện. Vì Hòa thượng Thanh Kiểm nói được tiếng Nhật nên đã giới thiệu trực tiếp với quý vị trong đoàn về kinh sách hiện có tại Thư viện. Trong lúc tham quan, dường như họ chú ý nhiều đến bộ Tục Tạng, Ðại Tạng của Trung Quốc và bộ Nam Truyền của Nhật Bản. Sau khi xem hỏi kỹ những bộ kinh này, đoàn dạo quanh một vòng gian ngoài rồi từ từ tiến sâu vào cuối phòng và dừng lại trước một tủ kính đựng kinh sách bằng chữ Hán loại cổ bản. Theo đề nghị của vị sư Nhật, Hòa thượng Thanh Kiểm mở cửa tủ và rút ra quyển “Giới Ðàn Tăng” đưa cho họ xem. Một ông cư sĩ Nhật lấy sổ tay ra vừa hỏi vừa ghi chép. Sau khi xem sơ hình dáng quyển sách, vị sư trao lại cho tôi. Vì chồng sách quá chật nên khi cất vào chỗ cũ có hơi khó khăn. Ðể giữ phép lịch sưï trong lúc đoàn đang coi, tôi tạm để cuốn sách qua một bên rồi đứng về một phía. Tôi có tính hơi lạ là hễ khâm phục một quốc gia nào rồi, thì con người của quốc gia đó - không biết cá nhân họ như thế nào - khi qua Việt Nam tôi đều có cái nhìn thiện cảm. Do đó, sưï hiện diện của vị sư Nhật hôm nay khiến tôi chú ý rất nhiều. Vì thế một cử chỉ rất nhỏ của ông tôi đều không bỏ sót.
Trong lúc Hòa thượng Thanh Kiểm đọc những tên sách cho vị cư sĩ người Nhật chép, tôi ngạc nhiên thấy vị sư cứ chăm chú, thấp thỏm như muốn lấy một vật gì trong tủ. Có lẽ ngài muốn xem một cuốn sách nào khác, nhưng vì ngại nên không tiện hỏi chăng? Tuy nói chuyện trao đổi với nhau thật vui vẻ, nhưng thật lạ, chốc chốc vị sư lại đưa mắt nhìn về phía tủ kinh với dáng vẻ như chưa hài lòng một điều gì đó. Và khi Hòa thượng Thanh Kiểm mở tủ lấy ra một quyển sách khác theo đề nghị của ông cư sĩ Nhật, thì lập tức vị sư cũng định đưa tay vào tủ. Rồi vì Hòa thượng Thanh Kiểm đã lấy sách ra nên vị sư bèn rụt tay trở lại. Thấy thế tôi càng thắc mắc và định nhờ người thông dịch hỏi xem vị sư cần coi quyển sách gì, tôi sẽ lấy giúp, nhưng rồi lại thôi.
Sau khi trao đổi với nhau đã thỏa mãn, Hòa thượng Thanh Kiểm cất quyển sách vào chỗ cũ, đóng cửa tủ lại chuẩn bị trở ra. Lúc này vị sư Nhật mắt vẫn không rời tủ kinh và bỗng nhiên ngài đưa tay khẽ mở tủ, rút ra quyển Giới Ðàn Tăng mà tôi để tạm qua một bên khi nãy, cố gắng nhét vào đúng chỗ của nó. Tôi chợt lặng người trước cử chỉ rất bình thường mà đáng phục này và tìm ra lời đáp. Cũng như tôi trước đó, vị sư loay hoay mãi vẫn không nhét được. Tôi thấy vậy liền đỡ lấy quyển sách và làm nhiệm vụ của mình. Ðợi khi quyển Giới Ðàn Tăng trở về đúng vị trí cũ vị sư Nhật mới cất bước, lúc này trên gương mặt đạo mạo của ông hiện lên những nét vui tươi thỏa mãn. Trước đây tôi chỉ nghe về đất nước và con người Nhật Bản. Hôm nay tôi mới thấy và hiểu họ nhiều hơn.
Cử chỉ của vị sư Nhật đã gợi nhớ lại trong tôi kỷ niệm thời niên thiếu khi còn ở tại gia. Ông thân tôi có tính sạch sẽ, mỗi khi đi làm về tới nhà thấy đồ đạc bừa bãi hoặc dơ bẩn, ông liền tự tay đi thu dọn. Tuy nhiên, không phải việc làm ấy của ông dễ dàng để chúng tôi quen thói lười biếng. Cứ mỗi lần như vậy, vừa làm ông vừa “lẩm bẩm” rất khó chịu. Thế rồi để khỏi bị “giáo dục”, cứ mỗi lần ông sắp đi làm về, chúng tôi đều phải lo dọn dẹp trong nhà cho thật gọn sạch. Và bây giờ đến lượt tôi, có lẽ đã thấm nhuần tính sạch sẽ đó, nên mỗi lần về chùa, thấy bừa bãi lại cũng... lẩm bẩm và rồi tự tay đi dọn theo thói quen “cha truyền con nối”.
Khi xuất gia tôi cũng đã ghi sâu câu “lấm rửa lệch kê” mà thầy đã huân tập hàng ngày cho tôi. Mỗi lần đứng dậy mà không xếp ghế lại chỗ cũ là bị rầy. Ði ngang qua một vật gì thấy lệch xéo mà không chỉnh đốn lại ngay ngắn là bị la v.v... Ðại để lấy câu “lấm rửa lệch kê” làm phương châm hành động. Nếu sai cứ bị nghe “thuyết pháp” dài dài. Và để trở thành thói quen, tôi cũng phải dày công “tu luyện”. Thật ra, thói quen ấy là kết quả của sự sợ bị “chỉnh” chứ chẳng phải tu luyện gì cả.
Suy mình ra người. Ðể có được một cử chỉ rất bình thường như vị sư Nhật vừa qua, theo tôi không phải ngẫu nhiên, mà chính là một thói quen đã được rèn luyện lâu ngày. Từ điều này tôi liên tưởng đến các Thiền sư, những vị đã hoàn toàn làm chủ lấy mình, hẳn mỗi nụ cười, mỗi cái nhìn, mỗi cử chỉ... đều tỏa ra sưï bình an, tự tại và tuyệt hảo. Ôi, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Ðức Phật đâu phải chuyện hão huyền!
Vị sư Nhật đã rời khỏi Thư viện và sẽ trở về nước trong nay mai. Chắc chắn thời gian sẽ làm phai mờ hình ảnh vị sư trong ký ức tôi, nhưng cử chỉ đáng quý ấy sẽ mãi mãi khắc sâu vào tận đáy lòng.
5/ Ðeo mắt kính
Nếu tôi không lầm, mắt kính được sáng chế ra nhằm mục đích giúp cho những người mà cặp mắt bị sự cố. Dần dần nó đã chuyển thành công cụ bảo vệ đôi mắt, rồi tiến đến tạo mốt cho gương mặt. Do vậy đã có bao nhiêu kiểu kính ra đời. Có những cặp tạo cho gương mặt thêm dễ thương, nhưng cũng không ít loại xem càng dị dạng. Nhìn một người đeo mắt kính, nếu không phải là cận thị, tôi đều nghĩ ngay anh hay chị đang làm duyên đây! Do đã có thành kiến như vậy nên việc đeo kính của tôi bây giờ chẳng dễ dàng chút nào.
Trong đợt hội diễn vòng sơ kết văn nghệ Phật giáo nghiệp dư, do Tổ công tác Văn hóa Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh tổ chức tại giảng đường chùa Xá Lợi, tôi phụ trách hướng dẫn nhóm Phật tử huyện Hóc Môn lên tham dự. Buổi chiều đi dự thì sáng hôm đó tôi bị đau mắt đỏ. Ðể khích lệ tinh thần các em Phật tử, mặc dù đau mắt tôi vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy có người cho mượn mắt kính đeo để tránh gió bụi khi đi đường, tôi vẫn thấy ngài ngại và cầm nó trong tay nhiều hơn là đeo! Sau buổi hội diễn trở về chùa mắt tôi bị sưng đỏ lên. Các Phật tử đổ lỗi tại tôi không đeo kính, đi ra phố nhiều, tiếp xúc với nữ giới v.v... Ðể mau khỏi bệnh, từ hôm đó tôi tập đeo kính trước công chúng. Tuy việc đeo kính là do đau mắt chứ không phải làm duyên như tôi vẫn thường quan niệm trước đây, nhưng khi gặp ai tôi cũng giới thiệu cho họ biết trước là mình bị đau mắt đỏ!
Do Phật sự, tôi đi lại từ thành phố về Hóc Môn bằng xe Honda rất thường xuyên. Lần nào về đến chùa, mắt tôi cũng “sản xuất” ra hai cục bụi ghèn! Có hôm, tôi bị những con vật li ti bay vào mắt làm cay xé, không thể mở mắt ra được, tôi phải dừng xe lại dụi mắt, đợi cho êm êm mới dám đi tiếp. Từ những sự thật trên khiến tôi phải xét lại quan niệm xấu về việc đeo kính của mình trước đây. Và khi nhận rõ sự lợi ích của nó rồi, tôi mong mình có được cặp kính để đeo.
Quả là Trời cao có mắt. Lòng mong ước đã được cảm ứng. Một hôm, mở gói quà nhân dịp lễ Vu Lan, tôi ngạc nhiên khi thấy cặp kính trong đó. Lòng thầm vui, tôi cứ ngắm nhìn nó mãi.
Mặc dù đã biết rõ lợi ích của mắt kính rồi, nhưng cái tư tưởng đeo kính để làm duyên chưa bị “loại khỏi vòng chiến” hoàn toàn, nên tuy có kính trong tay tôi vẫn coi như là không. Một hôm tôi đánh bạo đem ra xài thử khi đang trên đường đi từ thành phố về Hóc Môn, nhưng chẳng đơn giản chút nào. Tôi phải giấu nó vào trong túi xách đợi đi cách thật xa chùa mới lấy ra đeo và khi về gần đến nơi lại tháo ra cất vào túi. Nhất là trong lúc đi đường tôi cảm thấy mất tự nhiên về cặp kính nơi gương mặt của mình. Mọi lần, có khi nào tôi quan tâm đến người đi đường đâu? Thế mà hôm nay tôi thấy dường như ai ai cũng nhìn tôi đến là lạ. Chẳng may gặp người quen là tôi tháo vội kính ra và giấu ngay lập tức.
Nghĩ cũng lạ, có những cái không ai chê trách, chẳng giới luật nào ngăn cấm, vậy mà chỉ vì một chút lo ngại cỏn con đã làm mất đi sự tự tại trong hành động. Thú thật, cái câu “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố” trong Kinh Bát Nhã tôi đã thuộc làu hơn mười mấy năm rồi. Ấy thế, cho đến nay tôi vẫn đọc như két chứ chưa ứng dụng trọn vẹn câu kinh ấy trong cuộc sống thường nhật của mình. Do vậy việc đeo mắt kính của tôi chẳng biết sẽ còn bị “khủng bố” đến bao giờ?
6/ Bằng tất cả tấm lòng
Ánh nắng gay gắt của mùa Hè tháng Tư năm nay vẫn không làm nản chí các độc giả thường xuyên đến Thư viện Phật giáo đọc sách. Họ vẫn ngồi yên lặng nhìn chăm chú trên từng trang giấy mực. Thỉnh thoảng do căng thẳng thần kinh, họ ngước nhìn ra phía trước, nơi vườn cây cảnh của chùa, để cho tâm hồn thanh thản hơn, hoặc để suy tư về một vấn đề gì còn khúc mắc. Ðôi khi họ phải đứng dậy và đi dạo quanh vườn một vòng cho thư giãn rồi trở lại chỗ cũ tiếp tục nghiên cứu. Mặc dù trời nắng gắt, nhưng gió vẫn nhẹ thổi đều vào Thư viện mang theo hơi nóng và mùi thơm dìu dịu của bông sứ trắng trồng cạnh lầu chuông.
Một cô gái tuổi trạc đôi mươi, gương mặt trái xoan tươi sáng, nước da ngăm đen, mặc chiếc áo sơ mi ngắn tay và chiếc quần Jean xanh đã bạc màu, đứng dậy bước ra sân và đi dạo. Ðang thong thả bước từng bước một, bỗng cô gái khựng lại và nhảy vào sân cỏ khi nhìn thấy hai con chim sẻ đang lảo đảo bên gốc cây cau cảnh. Thấy người đến, đôi chim hoảng sợ đập đập đôi cánh cố thoát thân, nhưng không tài nào bay nổi và đã nằm gọn trong tay cô gái một cách dễ dàng. Chúng thở mệt nhọc yếu ớt với đôi mắt lờ đờ mất thần. Ðoán được việc gì phải làm trong lúc nguy cấp này, cô bước vội ra khỏi sân cỏ, đi đến bên vũng nước nơi chiếc vòi tưới cây bị thủng đang chảy đọng trên nền sân. Tôi nhìn thấy biết ngay những con chim vừa được phóng sinh, do bị nhốt lâu nên đã kiệt sức. Thế rồi cô gái ngồi cạnh vũng nước, đặt một con chim xuống đất, cầm một con bên tay trái, tay phải nhúng vào vũng nước rồi đem vuốt lên mặt chim, động tác thật mềm mại dịu dàng, như bàn tay người mẹ hiền chăm sóc đứa con thơ trọng bệnh. Cô gái khẽ vạch mỏ chim ra nhỏ từng giọt nước vào miệng, nó vừa nuốt vừa lắc đầu ra vẻ tỉnh táo. Mỗi lần làm xong một động tác, cô đưa tay vuốt vuốt lên mình chim để an ủi vỗ về, thỉnh thoảng lại đưa lên sát miệng thì thầm vào tai nó những câu gì đó có vẻ rất chân tình. Mồ hôi đã ướt đẫm lưng áo, cô gái vẫn ngồi đấy, chăm chú săn sóc đôi chim dưới ánh nắng cháy bỏng của mùa Hè.
Trên nền trời trong xanh, thỉnh thoảng vài cụm mây trắng lơ lửng trôi. Gió khẽ lay động cành cây. Một bông sứ trắng lìa cành rơi bên cạnh. Cô gái vẫn thản nhiên ngồi như không có chuyện gì xảy ra.
Lát sau, cô gái đứng dậy, cầm hai con chim đi vào. Ðến cửa Thư viện cô rụt rè nhìn vào chỗ tôi ngồi để dò xét. Lúc ấy tôi nhanh chóng quay mặt sang chỗ khác ra vẻ như không hề biết một tí gì về việc làm của cô. Tôi hiểu mình phải nên hết sức tế nhị trong lúc này để tránh làm ngăn trở thiện tâm của cô gái (vì tôi là thủ thư). Cô liền rón rén tiến vào một góc phòng, khẽ đặt hai con chim trên nền gạch bông rồi trở lại chỗ cũ ngồi đọc sách. Thật ra cô chỉ ngồi đó để nghỉ mệt và theo dõi tình hình sức khỏe đôi chim.
Khi chuông đồng hồ điểm mười một tiếng báo hiệu hết giờ, cô gái đem hai con chim ra ngoài. Ðến bên gốc cây cau cảnh, cô đặt một con trên sân cỏ, con kia thì tung lên trên không, chim bay lảo đảo một chút rồi đậu trên cành cây. Sau đó, cô cúi xuống nhặt xác con chim còn lại, đem đến cạnh bờ tường, moi đất chôn. Mọi việc xong xuôi, cô gái dắt xe đạp đi ra. Trước khi về cô còn ngoái nhìn lại nơi con chim vừa mới chôn như thầm thương tiếc cho số phận bất hạnh của nó.
Một bông sứ trắng lại lìa cành và rơi bên cạnh cô. Nhặt chiếc bông lên ngắm nhìn và như nhận ra được điều gì từ đấy, cô gái mỉm cười, ném bông lên mộ chim rồi leo lên xe đạp khởi hành.
Cô gái đang khuất dần sau cổng tam quan chùa Vĩnh Nghiêm, để lại trong lòng tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp. Trong Thư viện bây giờ chỉ còn lại mình tôi với bao cảm xúc. Quả là có những việc hết sức bình thường tưởng chừng như dễ làm, nhưng không phải ai cũng làm dễ.
Mong ước sao trong cuộc sống của mình sẽ làm được những việc thiện nhỏ, thật nhỏ thôi, nhưng bằng tất cả tấm lòng và trọn vẹn.
7/ Quỷ thần hai vai chứng giám
Cây Bồ đề to lớn sừng sững phía trước cửa chùa. Những chiếc lá hình trái tim sum suê xanh tươi đang nhẹ nhàng lay động. Tiếng dế nỉ non hòa trong không gian tĩnh mịch. Những vì sao đang hiện rõ trên nền trời xanh thẫm. Cảnh vật chìm dần vào bóng đêm. Bên cội Bồ đề, dưới ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn tròn, tượng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi uy nghiêm. Quang cảnh đã gợi lại hình ảnh sống động cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, nơi gốc cây Pippala, Sa môn Cù Ðàm đang ngồi trầm tư mặc tưởng.
Một chiếc xe đạp dừng lại, cậu bé khoảng mười bốn tuổi xuống xe dẫn bộ qua khỏi nơi Ðức Phật ngồi. Khi em vừa định lên xe đi tiếp thì tôi từ một gốc cây bông sứ cạnh đó bước ra đón đường hỏi chuyện.
- Em đi đâu về tối vậy?
Hơi ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của tôi, em lúng túng đáp:
- Thưa... Thưa thầy, con đi mua thuốc cho má con.
- Má em bệnh gì vậy?
- Dạ, má con bị cảm sốt.
Biết em đang vội về nên tôi vào đề ngay:
- Thường thường vào ban đêm những người qua lại nơi đây đều chạy xe luôn. Lâu nay tôi để ý chỉ có một mình em là xuống xe. Nhất là hôm nay, trong khi má đau cần thuốc gấp như vậy, tại sao em không chạy luôn mà lại xuống xe dẫn bộ?
- Dạ, thưa thầy tại vì con làm theo đúng tấm bảng này.
Cậu bé đưa tay chỉ tấm bảng đen đề những chữ trắng “NƠI TÔN NGHIÊM, YÊU CẦU XUỐNG XE DẪN BỘ”.
Tôi mỉm cười nói:
- Biết rồi cậu bé ơi! Nhưng nhiều người nói ban đêm Phật ngủ. Còn chúng Tăng trong chùa thì đi nghỉ cả rồi, có ai thấy đâu mà sợ la rầy.
- Dạ, thưa thầy, má con nói là người ta có quỷ thần hai vai chứng giám. Ban ngày hay ban đêm gì cũng vậy, nếu mình làm sai quỷ thần đều ghi chép đầy đủ. Mình có dối người khác được chứ không dối quỷ thần hai vai của mình được đâu thầy.
- Vậy hả? Thế là em vì sợ quỷ thần hai vai ghi chép nên không dám làm sai lời tấm bảng này phải không?
Cậu bé gật đầu dạ rồi vội vã cáo từ và lên xe.
Do không ý thức nơi tôn nghiêm, một số người qua lại trong khuôn viên chùa, trước tượng Phật, cứ phóng xe tự nhiên. Hơn ba tháng nay chùa đã cho dựng tấm bảng cấm ấy để nhắc nhở. Sự xuất hiện của tấm bảng đã giúp họ biết lễ độ khi đi ngang qua nơi thờ phụng và nếu ai cố tình vi phạm sẽ bị chúng Tăng nhắc nhở. Thế nhưng công hiệu của tấm bảng chỉ được một vài tuần đầu. Dần dần, mỗi lần chạy xe ngang qua họ đều ghé mắt vào chùa quan sát coi có ai để ý gì không, nếu có thì chấp hành tốt xuống xe dẫn bộ, còn không thì tiếp tục hành trình trên con ngựa sắt. Dường như họ chỉ sợ người trong chùa thấy chứ không tôn trọng tấm bảng cấm. Cũng giống như đến ngã tư đường người ta không nhìn đèn đỏ mà cứ nhìn xem có anh công an không! Ðã chạy vào đường ngược chiều không sợ nguy hiểm về tai nạn xe cộ mà lại sợ cảnh sát giao thông! Hình như phần đông người ta chỉ sống bằng hình thức bên ngoài nhiều hơn là sống thực với lòng mình. Họ không tin sợ ở chính mình mà chỉ sợ những thứ bên ngoài mình. Và oái oăm thay, những điều bất hạnh xảy ra nơi cuộc đời này lại bắt nguồn từ những người không biết tin sợ chính mình. Một khi người ta tự dối mình thì cũng sẽ dối được với cha mẹ ở nhà, lừa gạt thầy bạn ở trường và gian trá với quần chúng ngoài xã hội. Nếu một lỗ mọt trong con đê không được lấp kín kịp thời, thì chẳng bao lâu nước sẽ phá vỡ cả bờ đất lớn.
Khi tinh thần tự giác còn quá thấp, trình độ giáo dục còn hạn chế, khi mà người ta chưa sống thật với lòng mình ở mọi hoàn cảnh thì sự hiện diện của Pháp luật và Công an vẫn còn cần thiết để hạn chế tội
lỗi. Và nếu trình độ khoa học chưa đủ khả năng giáo dục con người sống chân thật với chính mình, thì quỷ thần hai vai cũng vẫn còn tác dụng giúp cho một đứa trẻ chân chất nơi miền quê biết xuống xe dẫn bộ khi đi qua bảng cấm lúc vắng người.
8/ Chắp tay xá chào
Thành, một bé trai khoảng hơn hai tuổi, có gương mặt sáng và đôi mắt đen huyền rất kháu khỉnh. Một vài cô Phật tử gần nhà thỉnh thoảng đưa bé qua chùa chơi. Mỗi lần gặp tôi Thành đều kêu “Thầy” và chắp tay xá chào theo sự chỉ dẫn của người lớn.
Một hôm, tôi đang trên đường về chùa bằng xe đạp, bé Thành từ trong nhà đang lững thững đuổi theo chú chó con, nên không thấy xe tôi đang chạy tới. Lúc ấy những người gần đó thấy vậy la lên, bé hoảng hồn đứng khựng lại và tôi cũng vừa thắng xe kịp. Thành nhìn lên gặp tôi liền kêu “Thầy” rồi chắp tay xá xá trước sự ngạc nhiên đến phát cười nhưng đầy trìu mến của những người quanh đó. Cái cử chỉ chắp tay chào của chú bé có khác gì những lần trước đâu, thế mà hôm nay sao lại dễ thương đến lạ!
Nhớ lại năm mười hai tuổi, tôi theo mẹ đến một Tịnh xá nhân dịp lễ hội. Khi gặp nhà sư, mẹ tôi chắp tay cúi đầu chào và kèm theo câu “Mô Phật”. Tôi thấy lối chào sao mà ngồ ngộ khác thường. Lúc ấy mọi điều mắt thấy tai nghe đối với tôi đều mới lạ cả. Từ ngôi tịnh xá hình bát giác mái nhọn với tượng Phật Thích Ca ngồi uy nghiêm, đến những căn nhà nhỏ bằng ván hình vuông, mái lá xinh xinh bao quanh khuôn viên (sau này tôi mới biết đó là “cốc” nơi quý sư ở). Từ cây Bồ đề sừng sững tàn lá sum suê che mát trước sân, đến dáng dấp các vị sư trong mảnh y vàng phất phới tung bay, đã gợi cho tôi những thiện cảm đầu đời về đạo. Trong lúc quan sát, tôi thấy một vị sư từ ngoài cổng đi vào tịnh xá, quảy lủng lẳng bên hông một cái túi, trong đó đựng một quả bát để nhà sư dùng cơm, đầu phơi nắng, chân không mang dép, dáng vẻ thật ung dung tự tại. Vị sư trụ trì từ trong cốc đi ra. Họ chắp tay trước ngực cúi chào nhau rất cung kính. Vị sư chủ cũng đáp lễ theo. Nhìn cử chỉ chào của hai vị sư sao mà khiêm tốn và chân thành quá. Họ chào nhau không chỉ là hình thức xã giao lấy lệ mà xuất phát bằng tất cả tấm lòng. Ngày nay hồi tưởng lại, tự nhiên niềm kính phục nhà sư cứ tràn lên trong tôi. Và cũng chính những ấn tượng ấy đã ảnh hưởng sâu đậm đến tương lai đời tôi.
Lúc mới vào trường học, tôi được dạy khoanh tay chào khi gặp thầy cô giáo, phải đứng dậy khi thầy giáo vào lớp. Có điều lạ là các thầy giáo gặp nhau không khoanh tay chào như chúng tôi vẫn chào thầy, mà lại bắt tay. Hồi đó tôi có ý nghĩ hết sức trẻ con. Tại sao các thầy không khoanh tay chào nhau cũng giống như quý sư ở Tịnh xá. Sư chào sư cũng chắp tay, mà Phật tử chào sư cũng tay chắp! Lớn lên, theo dõi thời sự qua màn ảnh truyền hình, tôi rất lấy làm lạ về lối chào của một số nước phương Tây. Họ gặp nhau bất kể nam nữ, già trẻ đều ôm hôn “chóc chóc” đủ cả hai bên má. Nhìn họ hôn hít nhau giữa đường giữa chợ như vậy tôi lấy làm “mắc cỡ” giùm.
Ngày nay, khi tâm trí khai thông, tôi không thấy cách chào ấy là kỳ cục nữa mà còn cho đó là nét văn hóa đặc thù của một dân tộc. Càng hiểu về văn hóa, tôi càng muốn được trông thấy những cái hay cái lạ của từng địa phương. Theo tôi, văn hóa là những nét đẹp mà người ta tìm thấy ở một dân tộc hay một tôn giáo khác mà mình không có. J.H. Fichter, giáo sư xã hội học, đã nói: “Chính qua văn hóa người ta mới tìm thấy ý nghĩa và mục đích của nếp sống vừa cá nhân vừa xã hội”. Sở dĩ ngày nay người ta dám bỏ ra một số tiền lớn để đi du lịch, cũng chỉ vì muốn tận mắt chứng kiến phong tục tập quán ở những nơi khác mình.
So sánh với lối chào khác, tôi thấy đạo Phật có lối chào rất đẹp. Khi chào nhau, người Phật tử chắp hai bàn tay lại như một búp sen. Mà đặc tính của sen là: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Như vậy người Phật tử chắp tay chào nhau, ngoài phép tắc xã giao còn thầm nhắc nhở nhau: Hãy sống một đời trong sạch như sen nở ngát hương thơm nơi bùn lầy nước đục. Thật quý hóa thay, một biểu tượng cao đẹp xuất phát từ những tâm hồn cao đẹp. Ðúng như Fichter đã nhận xét: “Một xã hội ra sao là do văn hóa tạo nên”.
Thế mà lâu nay tôi vẫn coi thường cách chào và cho đó chỉ là bổn phận: Phật tử chào thầy, hoặc thầy nhỏ chào thầy lớn. Do quan niệm như thế, có lần một thầy trẻ tuổi đến viếng chùa, tôi thấy mình lớn nên chờ vị ấy chào trước, nhưng trớ trêu thay vị ấy (có lẽ cũng thấy mình lớn) và chờ tôi chào trước. Cuối cùng, vì lịch sự tôi giơ tay lên chào (theo kiểu nhà binh) và vị ấy cũng vậy. Sau đó chúng tôi tiến hành bắt tay nhau! Nghĩ lại, tôi thấy mình hành động thật kỳ dị. Người ta thường nói càng học rộng càng có văn hóa cao. Còn tôi tự nhận xét thấy mình càng tu “cao” càng có nhiều “ngã’. Trong khi đạo Phật chủ trương “Vô ngã” mà tôi chẳng “Vô” một tí nào cả. Nếu ai cũng tăng trưởng cái “ngã” kiểu này thì có nguy cơ thế tục hóa mất. Sau này khi đọc Kinh Pháp Hoa đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát, biết ngài chuyên môn đi lạy mọi người để cầu mong họ thành Phật, tôi càng cảm thấy hổ thẹn vô cùng.
Ðã hiểu văn hóa là sản phẩm của con người, con người ra sao thì văn hóa thế ấy và nhìn cách sinh hoạt của một đoàn thể, người ta biết được trình độ văn hóa thấp cao. Sự biến chất của văn hóa là kết quả tất yếu của một đoàn thể tha hóa.
Người lớn chúng ta thường giành quyền hơn so với trẻ con, nhưng có cái thua xa trẻ con mà không biết. Ðiển hình có những Phật tử khi đến chùa thì chắp tay chào quý thầy, nhưng lúc gặp ngoài đường lại gật gật gù gù. Phải chăng chúng ta chưa biết tự hào về nét đẹp của lối chắp tay chào hay vì cái “ngã” quá to? Và mến thương làm sao cái cử chỉ chắp tay chào rất tự nhiên của bé Thành trước cái nhìn trìu mến của biết bao cặp mắt người lớn.
9/ Mong ước đầu Xuân
Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa là bước qua năm Tân Mùi. Khắp nơi trong thành phố xe cộ và người qua lại tấp nập. Họ đang vội vã về nhà với những thứ bên mình như: Bánh mứt, trái cây, bông hoa... để chuẩn bị cho buổi lễ giao thừa sắp tới. Trước cửa nhà dọc theo phố chính, đèn hoa, chậu bông được trang hoàng với đủ loại màu sắc rực rỡ. Tiếng pháo đì đùng đã vang vọng đó đây. Không khí thật tươi vui nhộn nhịp.
Hòa cùng với niềm vui chung đó, tôi cũng đang trên đường về chùa với một cành mai vàng trên chiếc xe Honda. Ðang miên man nghĩ đến giờ phút giao thừa tại chùa với quang cảnh Phật tử đi lễ Phật và hái lộc đầu năm, với những lời chúc tụng bên cạnh tách trà nóng thắm tình đạo vị, bỗng tôi bị cắt đứt dòng suy tưởng khi thấy xa xa phía trước xe có một bóng người đi ngược đường. Có một điều làm tôi chú ý là người ấy không đi đứng tự nhiên mà dường như là ngồi đi, khiến tôi nghi vấn không hiểu đây là người hay ma? Bởi vì suốt đoạn đường Tô Hiến Thành, từ ngã tư Lý Thường Kiệt đến ngã ba Nguyễn Tri Phương, không có ánh sáng đèn đường, mặc dù cột điện và bóng đèn đã có sẵn từ lâu. Tối nhất là khu đối diện doanh trại quân đội với Trường Ðại học Bách Khoa. Do vậy ánh sáng đèn xe qua lại chập chờn, khi sáng khi mờ nên không thấy rõ là người hay ma. Nhưng tôi tin chắc không thể có ma xuất hiện giữa đường phố như vậy. Ðây chỉ là người mà thôi. Tôi cố hướng ánh đèn xe của mình chiếu vào người ấy xem sao. Lúc này chiếc xe chỉ còn cách xa khoảng mười thước và tôi đã nhận ra đúng là người chứ không phải ma. Một người đàn ông đi bằng hai bàn tay của chính mình, vì hai chân đã bị cụt. Xe càng đến gần tôi càng nhận rõ gương mặt gầy xạm nắng của ông. Tuổi ông khoảng độ 50, mặc chiếc áo lính đã vá nhiều mảnh với chiếc quần đùi để lộ hai chân cụt ngủn phía trước, bên dưới mông có lót một miếng vỏ xe hơi. Trên vai ông đeo một chiếc túi đã cũ màu. Ông đi bằng cách chống hai tay xuống đất - dưới bàn tay có cột hai chiếc ghế con - rồi nhấc mình lên đằng trước. Cứ thế một thân một mình ông lê từng bước trên con đường đầy xe cộ qua lại, trước giờ phút vội vã của bao nhiêu người đang chuẩn bị đón mừng xuân mới. Tôi dừng xe bên cạnh ông, qua ánh đèn thấy mặt ông nhễ nhại những giọt mồ hôi. Tôi hỏi:
- Bác đi về đâu vậy?
Ngước nhìn tôi ông đáp:
- Tôi đi đến đầu đường Nguyễn Tri Phương.
Lúc ấy có chiếc xe xích lô chạy tới, tôi liền ngoắc lại. Mặc cả giá xong tôi trả tiền trước và nhờ anh xích lô đưa ông lên xe. Trong túi chỉ còn 2.000 đồng, tôi biếu ông luôn. Gương mặt ông rạng rỡ hẳn lên với lời cám ơn rất chân thành. Tôi muốn hỏi thăm và an ủi về cuộc đời bất hạnh của ông, nhưng vì trời đã tối, đường về chùa còn xa nên tôi đành phải tạm biệt ông.
Suốt chặng đường còn lại tôi không thiết nghĩ gì khác ngoài số phận của người tàn phế này. Chắc chắn khi sinh ra ông cũng đầy đủ chân tay như bao người khác. Và không khi nào ông nghĩ là cuộc đời mình sẽ bị cảnh tàn phế như vậy. Thế rồi vì chiến tranh, hay vì một lý do nào đó đã cướp đi một phần thân thể yêu quý của ông. Theo tôi đoán trong các lý do trên thì chiến tranh là phần đúng. Vì dấu tích nơi thân thể ông là một bằng chứng rõ rệt. Ai cũng công nhận và lên án chiến tranh là thảm họa và đau thương. Không một ai muốn cảnh tương tàn tương sát xảy ra giữa con người với nhau. Vậy mà tại vùng Vịnh ngày nay người ta lại đang tiến hành một cuộc chiến tranh khốc liệt. Ai đã gây nên cảnh máu đổ thịt rơi như thế? Ông trời hay con người? Rõ ràng chúng ta không thể đổ lỗi cho ông trời mà phải nhìn nhận một cách thực tế rằng chiến tranh là do con người gây ra. Mà tham, sân, si là đầu mối của bao tai họa trên quả đất này. Khi nào tham, sân, si còn khống chế sai sử con người thì cuộc đời này sẽ không bao giờ có hòa bình vĩnh cửu.
Tiếng pháo đã vang rền khắp nơi. Năm cũ đang đi qua và năm mới sắp đến. Trong khi chúng ta hân hoan đón mừng Xuân mới thì đó đây trên quả địa cầu này chiến tranh vẫn tiếp tục gieo rắc đau thương và cướp đi một phần thân thể của biết bao con người. Chúng ta hãy chắp tay cầu nguyện cho thế giới hòa bình, cho người người thương yêu nhau, cho tình thương xóa sạch hận thù. Ðể những mùa Xuân mới sẽ không còn thêm những người lê tấm thân tàn phế vì chiến tranh trên khắp nẻo đường quê hương đất nước.
10/ Lời đáp từ buổi lễ quy y
Sau khi các giới tử làm lễ thỉnh Sư truyền pháp Tam quy, một thiện nam bưng khay lễ đi trước, tiếp theo là thầy trụ trì chùa Thiện Phước. Từ Tổ đường lên chính điện, giới tử đứng hai bên chắp tay cung nghinh thầy thật trang nghiêm. Tiếng chuông trống Bát Nhã trỗi lên rền vang trong không gian. Thùy Trang cảm thấy náo nức sung sướng đón chờ giờ phút thiêng liêng của người sắp được thọ pháp.
Ðã từ mấy năm nay, Thùy Trang và một số bạn trẻ của chùa mong được thầy quy y để có pháp danh, để chính thức là người đệ tử Phật, nhưng mỗi lần cầu thỉnh thầy lập đàn quy đều bị từ chối với lý do: Thầy còn trẻ, chưa đủ đức độ thâu nhận đệ tử. Họ đều không hài lòng cho lắm về lời từ chối khéo léo đầy khiêm nhường ấy. Ðôi lần họ cũng bàn tán với nhau: Có lẽ mình chưa xứng đáng làm đệ tử thầy hoặc đây là sự thử thách chăng? Rồi họ bảo nhau siêng năng đến chùa tụng kinh, lễ bái hằng đêm và công quả vào những ngày rảnh rỗi. Cứ sau vài tháng, mỗi lần vào dịp lễ lớn họ lại thỉnh cầu thầy làm lễ quy y, nhưng rồi cũng vẫn bị từ chối với lý do y hệt như trước. Họ ức lắm. Trong khi chính mắt họ thấy vào những dịp lễ như rằm tháng Giêng, Tư, bảy và Mười ở một số chùa có bảng thông báo lập đàn quy để mọi người có thể tham dự. Ðôi lúc Thùy Trang muốn xin ghi tên quy y ở những ngôi chùa này phức cho rồi. Khốn nỗi vì cái tình thầy trò bấy này đã không cho phép nàng đến với những đàn quy ấy. Thế rồi, niềm mong ước đã được toại nguyện. Thầy quyết định chọn ngày Ðức Phật Thích Ca thành đạo 8 tháng 12 làm lễ quy y, thời gian mà mọi người trong nước đang chuẩn bị đón mừng năm mới. Do có khát khao chờ đợi nàng mới thấy buổi lễ hôm nay thật quan trọng vô cùng. Tuy sung sướng, nhưng Thùy Trang vẫn còn nuối tiếc một điều gì đó. Nàng than thở với Diệu Hoa đang đứng bên cạnh mình:
- Thật tiếc quá!
Hiểu ý bạn, Diệu Hoa đáp:
- Bình tĩnh chờ đợi. Buổi lễ sẽ trả lời cho bạn rõ.
Thùy Trang có một người chị tên là Mai Lan. Hai chị em đều mộ đạo và thường đến chùa công quả. Vì hoàn cảnh phải đoàn tụ gia đình, hơn tháng nay Mai Lan đi Canada do sự bảo lãnh của chồng. Biết chị mình cũng quý kính thầy nên nhân dịp có đàn quy, Thùy Trang xin cho Mai Lan được quy y khiếm diện, nhưng thầy từ chối. Cuối cùng nàng chỉ xin thầy đặt cho chị mình một pháp danh và cũng bị từ chối nốt. Thùy Trang đem chuyện này than thở với Diệu Hoa. Kinh nghiệm bản thân, Diệu Hoa phân giải cho bạn rõ về tầm quan trọng của buổi lễ quy y. Hồi nhỏ vào cái tuổi lên sáu, vì muốn con mình có tên đạo, Diệu Hoa được mẹ dắt qua chùa Giác Ngộ để quy y. Từ đó đến nay đã gần hai mươi năm rồi mà nàng cứ tưởng như mình chưa một lần dự lễ thọ pháp. Bởi lẽ ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” ấy, nàng có biết tí gì về mục đích quy y đâu. Do vậy theo nàng, người quy y trước hết phải có ý thức tự giác, tự nguyện và không được vắng mặt trong buổi lễ đầy ý nghĩa đó, càng không thể có chuyện người này quy y thay cho kẻ khác, hoặc quy y với mục đích để được pháp danh. Tuy Diệu Hoa đã giải thích cặn kẽ vấn đề này cho Thùy Trang nghe, nhưng nàng nhất định không đồng ý. Diệu Hoa chỉ còn biết trông chờ vào buổi lễ hôm nay sẽ giúp bạn mình hiểu rõ mọi điều.
Thầy trụ trì đang tiến dần vào chính điện, đi ngang qua chỗ Thùy Trang và Diệu Hoa. Họ cùng nhau lần lượt xếp hai hàng bước theo sau thầy. Nơi bảo điện không ai bảo ai, mọi người đều tự động đứng theo thứ tự và giữ im lặng tuyệt đối. Quang cảnh vốn đã trang nghiêm lại thêm nghiêm trang hơn. Tất cả giới tử vừa ngơ ngác vừa hồi hộp đón nhận những điều mới lạ nhất trong đời nhập đạo của mình. Lúc ấy tiếng niệm hương của thầy ngân vang trầm ấm, quyện với hương trầm ngào ngạt như đưa giới tử vào cảnh giới an lạc kỳ diệu.
Sau khóa lễ Phật, thầy trụ trì đi qua bên trái chính điện, an tọa trên chiếc ghế dựa đặt cạnh chiếc bàn đã bài trí sẵn với một lọ hoa sen trên tấm khăn vải trắng. Nơi nền gạch hoa tất cả giới tử cùng ngồi chắp tay im lặng. Trước khi chính thức cử hành lễ quy y, thầy nói về tính chất vô thường, vô ngã của nhân loại và chỉ ra con đường dẫn đến giải thoát giác ngộ. Phật pháp được coi như bè báu đưa người qua bể khổ, là cửa ngõ vào cảnh Niết Bàn. Người học Phật muốn dứt trừ khổ não, hưởng sự an vui vô thượng thì không gì hơn là thọ trì giới pháp của Phật. Thùy Trang chăm chú lắng nghe và đón nhận pháp nhũ như nắng hạn gặp mưa sa.
Hiểu rõ sự lợi ích của Phật pháp rồi, người muốn quy y Tam Bảo trước hết phải sám hối để tẩy trừ phiền não, giúp cho thân tâm thanh tịnh. Cũng như muốn chứa nước trong sạch cần phải súc bình cho thật sạch trong. Thầy giảng xong, bảo mọi người đứng dậy chuẩn bị làm lễ sám hối. Thầy đọc trước, giới tử đọc sau:
- “Ðệ tử chúng con tên là... xưa kia gây tạo các điều lầm lỗi, ngày nay thành tâm sám hối, thề tránh các điều ác, nguyện làm các việc lành...”
Tất cả giới tử đồng thanh lập lại theo thầy ba lần như vậy. Những câu, những lời sám rất đơn giản, bình thường, thế mà không hiểu sao khi ứng dụng vào buổi lễ nó lại có tác động sâu sắc đến tâm tư Thùy Trang một cách lạ kỳ. Cứ mỗi lần đọc Thùy Trang lại có một cảm giác lâng lâng nhẹ nhàng như đang trút dần các phiền não còn đang tồn đọng trong mình bấy nay. Nàng sung sướng nhắm mắt lại để tận hưởng những giây phút an lạc của tâm hồn. Lúc ấy, vài giọt nước từ trên không rơi xuống đầu tỏa mùi thơm dịu, Thùy Trang vội mở mắt ra xem và thấy thầy đang cầm nhánh bông rải nước hoa lên đầu các giới tử. Mỗi phần của buổi lễ đã làm cho nàng từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tới bây giờ Thùy Trang mới hiểu lý do tại sao thầy không cho chị mình quy y khiếm diện và sự ân hận cũng bắt đầu nhen nhóm trong lòng nàng.
Sau phần sám hối, thầy lại tiếp tục giảng cho giới tử hiểu về ý nghĩa Tam Bảo. Lời giảng của thầy thật rành rõ. Người quy y Tam Bảo là trở về nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng. Chúng ta như khách lữ hành lạc lối giữa vạn nẻo đường, phải nương nhờ vào hướng đạo viên tài ba lỗi lạc. Ngồi nghe thầy giảng, Thùy Trang càng hiểu rõ thêm: Quy y Tam Bảo không phải để cầu tha lực phò trợ mà Tam Bảo được xem như chiếc thuyền từ, như kim chỉ nam hướng dẫn chúng sinh từ bến mê sang bờ giác. Mỗi lời giảng của thầy làm cho nàng thêm sáng mắt, sáng lòng.
Giảng xong, thầy bảo giới tử quỳ lên, chấp tay ngay ngắn, một lòng thành kính để chuẩn bị lãnh thọ Tam quy. Trước khi truyền pháp, thầy nhắc lại cho giới tử biết, đây là giờ phút quan trọng nhất mà người quy y không được vắng mặt. Câu nói ấy, Thùy Trang có cảm tưởng như thầy đang hướng về mình mà bảo. Nàng hổ thẹn quá không dám ngước mặt lên nhìn thầy nữa.
Giờ truyền Tam quy đã đến. Thầy nhắc các giới tử hãy chú tâm lắng nghe và lặp lại theo thầy mỗi câu ba lần:
“Ðệ tử chúng con tên là... xin suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”.
Truyền Tam quy xong thầy tiếp túc trao Tam kết. Trọng tâm buổi lễ quy y chứa đựng bấy nhiêu đó chữ, vậy mà đã làm thay đổi cả cuộc đời người thọ pháp.
Từ nay họ sẽ không còn lo sợ phải lạc lõng bơ vơ giữa muôn nẻo đường nữa vì đã có vị Ðạo sư sáng suốt chỉ đường dẫn lối. Và để xứng đáng là người Phật tử, họ phải cố gắng tu tập hơn nữa, giữ gìn giới hạnh hơn nữa. Thùy Trang quá sung sướng vì từ giờ nàng đã có pháp danh, đã có thầy. Trước đây, cứ mỗi lần đi đến chùa khác nàng không biết phải trả lời thế nào khi quý thầy hỏi: Con pháp danh chi và là đệ tử ai? Bây giờ thì nàng không còn phải lẩn tránh câu hỏi ấy nữa.
Phần truyền Tam quy và ngũ giới đã xong. Trước khi hồi hướng, thầy bảo giới tử ngồi xuống và dặn dò thêm về bổn phận người Phật tử. Một khi đã quy y rồi, người Phật tử không được quy y với ngoại đạo tà giáo, phải chăm đến chùa tụng kinh, nghe giảng để thúc liễm thân tâm, mở mang trí tuệ. Ðối với Tam Bảo, người Phật tử phải hết lòng hộ trì để góp phần hoằng dương chính pháp làm lợi lạc quần sinh. Thầy cũng không quên hướng dẫn cặn kẽ về mọi lễ nghi phép tắc căn bản nhất của người Phật tử khi đến chùa. Lắng nghe thầy dạy, Thùy Trang càng thêm nuối tiếc. Cái nuối tiếc bây giờ không phải vì thầy không cho chị mình quy y khiếm diện, mà nuối tiếc là Mai Lan đã không có mặt để cùng dự buổi lễ quy y hôm nay.
Tiếng chuông trống Bát Nhã lại ngân vang. Nơi chính điện, các giới tử đứng đối diện hai bên chắp tay cung tiễn thầy hồi quy phương trượng. Lúc này, những nét thỏa mãn hiện rõ nơi gương mặt mọi người. Thùy Trang đến nắm tay Diệu Hoa mỉm cười. Diệu Hoa cũng nở nụ cười đáp lại. Những nụ cười của họ chứa đựng biết bao nhiêu điều trong đó. Hai người cùng nhau im lặng bước từng bước rời khỏi đàn quy. Bên ngoài gió Ðông đang thổi về.
11/ Bác Tửu
Sau một ngày làm việc mệt nhọc, bác Tửu thả mình nằm trên chiếc võng nghỉ ngơi. Gió chiều nay khá mạnh, tiếng xào xạc của lá cây Bồ đề vọng đến nhà khách nghe rất rõ. Mặt trời đang hắt những tia nắng cuối cùng trên nền trời trong xanh. Bác Tửu khẽ nhắm mắt lại và hít một hơi dài không khí trong lành.
- Bác Tửu ơi!
Nghe tiếng gọi bác nhỏm người ngồi dậy. Tôi cầm cái ki đan bằng trúc đến bên cạnh:
- Nhờ bác phát tâm sáng mai chữa giúp cái ki này để đựng đất.
Biết ngày mai đào chân móng khởi công xây tháp cố Hòa thượng Viện chủ cần phải có ki tốt để làm, bác vui vẻ nhận ngay:
- Vâng, thầy đưa đây tôi.
Bác đứng dậy định vào phòng. Tôi ngăn:
- Bác cứ nằm nghỉ đi, sáng mai làm sớm cũng kịp chán.
- Ðể tôi làm một tí là xong mà.
Tôi cố cản nhưng bác không nghe. Vào phòng lấy con dao rựa, bác ra khóm trúc chặt một cây đem về làm. Bác cắt một đoạn trúc dài độ 70 phân, chẻ nhỏ ra mỗi mảnh khoảng một phân rưỡi ngang rồi đan dặm vào những chỗ ki đã bị hư gãy. Nhìn những đường gân nổi trên bàn tay của bác tôi thương quá. Ðôi bàn tay chai rắn đã chứng tỏ quá trình lao động cần cù của bác. Có lẽ nhờ tính siêng năng, giản dị và thật thà, bác đã chiếm được cảm tình của hầu hết mọi người trong chùa.
Trước đây bác ở Ðồng Xoài, Thuận Lợi, sinh sống bằng nghề cạo mủ cao su. Cuộc đời bác như mặt nước thu êm ả trôi, không ước vọng cao sang, chẳng mơ màng thê tử. Thấy bác vất vả và thui thủi một mình, những người hàng xóm thương hại đã giới thiệu cho bác một “người đàn bà” để hủ hỉ sớm hôm, bác mắc cỡ từ chối. Thế rồi, “người đàn bà” ấy đã “lỡ” thương bác nên quyết tâm tiến tới. Cuối cùng bác cũng vui mừng cạn chén giao bôi. Từ đó, mái nhà hiu quạnh trước đây nay đã trở nên ấm cúng, sớm hôm có người chăm lo chu tất. Bác cảm thấy vui vui và có được đôi chút hạnh phúc do người vợ “khéo” đem đến. Ngày nọ, sau khi làm việc ở đồn điền cao su về, bác thấy nhà cửa vắng vẻ, kiếm trước tìm sau không thấy người vợ yêu quý đâu. Khi mở tủ, bác mới vỡ lẽ toàn bộ số tiền vừa hốt hụi hôm qua đã theo người vợ biến mất! Bác có buồn đôi chút, nhưng thương tiếc thì không.
Năm 1965, chiến tranh tàn phá khu vực bác ở, Hòa thượng Viện chủ chùa Hoằng Pháp đã đón nhận số đồng bào này về tị nạn tại chùa, trong đó có bác. Do nương náu cửa chùa lâu ngày và quen dần nếp sống thiền môn nên bác xin ở lại chùa công quả. Ðã hơn hai mươi năm trôi qua, bác không cạo tóc và chẳng biết xuất gia hay tu là gì. Bác chỉ biết có một điều: Hàng ngày ăn cơm chùa thì phải quét lá đa, không từ nan bất cứ việc gì. Có lần bác bệnh cảm mà vẫn ra vườn nhổ cỏ, chăm sóc rau quả, tôi khuyên vào nghỉ, nhưng bác không nghe. Bác nói nằm nghỉ buồn bực tay chân lắm, làm việc cho khuây khỏa. Dường như bác chẳng chịu ở không bao giờ, chỉ trừ khi bệnh nặng làm không được mới chịu. Có lẽ nhờ tính siêng năng này mà bác thêm sức khỏe và ít bệnh tật. Tôi được biết có những người thiếu nghị lực, mặc dù đầy đủ sức khỏe mà vẫn luôn bệnh hoạn. Do lẩn tránh trách nhiệm nên họ cố tạo ra bệnh, ít lại xít ra nhiều. Dần dần con người họ trở nên bạc nhược và mất nghị lực sống.
Một điều đáng quý ở bác là ngoài ba bữa cơm ra, bác không say mê một thứ gì. Có lần tâm sự, tôi được biết trước đó bác cũng nghiện thuốc lào, từ khi vào chùa đã dứt bỏ hẳn. Tuy việc bỏ thuốc lào của bác không hay ho gì, nhưng so với những người “đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên” thì bác quả là người có đầy đủ nghị lực để từ bỏ một thói quen khó bỏ.
Ðồng thời với bác, đã có biết bao người đến chùa, họ hăm hở phát ra những đại thệ nguyện lớn lao muốn độ tận chúng sinh. Thế rồi chúng sinh độ mãi mà chưa tận, cuối cùng họ lại được độ tận bởi chúng sinh! Riêng bác, tôi chưa khi nào nghe bác nói đến chuyện tu hành hay mơ tưởng thành Phật tác Tổ gì cả, chỉ biết cặm cụi làm việc và ít nói. Thế mà bác vẫn cứ vững như kiềng ba chân, mặc cho bao lượt người đến chùa rồi ra đi không hẹn ngày trở lại. Tôi có cảm tưởng bác đang bước từng bước vững chắc trên con đường giải thoát.
Bác đan xong cái ki thì bầu trời đã đầy sao. Mọi ngày, trước khi ngủ bác đều khóa cổng chùa. Hơn tháng nay vì tuần thất của Hòa thượng Viện chủ, các Phật tử ra vào thường xuyên, nên đôi lúc bác cũng không chú trọng cho lắm việc đóng cổng. Vả lại, có lần bác nghĩ chùa rộng mênh mông hơn bốn mẫu, những khóm trúc trồng chung quanh chùa thay cho hàng rào cũng không kín đáo gì. Giả sử kẻ gian có ý đồ xâm nhập thì dù có khóa cổng cũng không ích chi.
Ðêm nay, mới 21 giờ mà khung cảnh nội tự đã yên lặng. Ðại chúng chỉ tịnh nơi tư phòng. Bỗng một loạt tiếng chó sủa hướng về phía cổng chùa. Bác Tửu giật mình thức giấc, nhỏm người ngồi dậy, vội vã bước xuống giường, mở cửa đi ra ngoài nhà khách. Với cái tuổi ngoài 60, hơn nữa mắt nhắm mắt mở, bác chỉ thấy hai bóng người mờ mờ phía trước. Bác hỏi vội:
- Ai đó?
Tiếng anh thanh niên đáp:
- Dạ, tụi cháu vào xin cây hương nhu.
- Mấy cậu ở đâu?
- Dạ, tụi cháu ở ngoài phố này.
Vì thỉnh thoảng chùa có xảy ra mất trộm nên bác cũng đề phòng kẻ gian lập mưu ăn cắp.
- Ðêm khuya tăm tối không ai đi lấy được đâu. Sáng mai các cậu đến tôi cho.
Một trong hai anh nói:
- Xin bác làm ơn làm phước giúp đỡ, má cháu đang bị cảm nặng, cần một ít hương nhu nấu nước xông ngay bây giờ.
-Dạ, xin bác mở lòng từ bi tế độ “cứu bệnh như cứu hỏa”. - Anh kia xen vào.
Bác Tửu nhìn kỹ thấy hai người ăn mặc đứng đắn, lời nói có vẻ ân cần tha thiết, mặc dù không đọc kinh sách, nhưng do ở chùa lâu ngày, hạt giống từ bi ít nhiều cũng gieo vào lòng bác, nên khi nghe nói bệnh nhân đau nặng cần thuốc, lại cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của người con thương mẹ, bác không còn do dự nghi ngờ gì nữa, liền bật đèn pin hướng dẫn hai anh ra vườn. Sau khi bẻ hương nhu xong họ lại xin thêm một ít xả, thế là bác cũng vui vẻ soi đường đưa họ ra mé vườn cách nhà khách khoảng bốn chục mét để nhổ. Nhổ xả xong bác cùng hai người quay vào nhà khách. Bác cảm thấy sung sướng trong lòng vì mình vừa làm xong một việc thiện, gương mặt tươi vui, vừa đi bác vừa hỏi thăm họ rất thân mật. Một anh đi song song với bác luôn cười nói đối đáp, một anh thì âm thầm lặng lẽ bước từng bước phía sau. Không gian tĩnh mịch, nội tự lúc này chỉ còn âm thanh của hai người và một vài tiếng dế kêu rả rích. Bỗng nhiên một tiếng “á” vọng ra từ cửa miệng bác khi bị hai bàn tay của người thanh niên phía sau bóp cổ mình. Do bất ngờ và mất thăng bằng bác lảo đảo chúi người về phía trước. Bác hốt hoảng la lên. Biết không ngăn kịp tiếng kêu cứu của bác, anh đi bên cạnh rút dao đâm bác một nhát rồi họ cùng nhau bỏ chạy. Tiếng kêu la của bác càng vang lên khẩn thiết trong đêm khuya thanh vắng. Mọi người thức giấc kéo nhau ra lùng soát kẻ cướp, nhưng kẻ cướp đâu không thấy, chỉ thấy xa xa một hàng trúc xanh âm u vắng vẻ.
Sau khi nghe bác thuật lại đầu đuôi sự việc và nhìn vết đâm loang máu nơi cổ tay bác, người thì chép miệng thương hại, người thì trách bác thương người không đúng lúc, người thì đổ lỗi tại không khóa cổng... Riêng bác thì:
- Chưa sao! Nó không đâm trúng tim là tốt rồi.
Mọi người chỉ buồn cười mà thương hại cho tính thật thà của bác. Một lát sau sự ồn ào cũng tắt dần, trả lại cho nội tự cảnh thanh tịnh như cũ.
Biết đây là bài học về lòng từ bi thiếu trí tuệ nên tôi nhắc nhở bác:
- Lần sau bác có từ bi cũng phải nên suy nghĩ cho kỹ một tí. Ðừng quá tin người như thế nghe bác.
- Vâng, vâng, lần sau tụi nó đừng hòng đem từ bi mà dụ dỗ tôi nữa.
Tôi phụ băng bó vết thương nơi cổ tay cho bác. Cầm bàn tay rắn chắc và chai cứng ấy, tôi lại nhớ đến cuộc đời cần cù siêng năng của bác mà thương kính vô cùng.
12/ Vị sư tu hạnh đầu đà
Bước lên gần chiếc cầu thang gỗ của phòng thầy Giác Liêm ở, tôi chợt thấy một vị sư khoác mảnh y vàng, dáng người to béo nằm trên chiếc võng dù. Nghe tiếng chân người, vị sư quay về phía cầu thang. Thấy vậy tôi vội chắp tay xá chào:
- A Di Ðà Phật! Bạch sư có thầy Liêm ở đây không ạ?
Sư nhỏm người ngồi dậy. Với gương mặt đầy đặn, nước da ngăm đen hơi vàng, trạc tuổi 50, sư tươi cười đáp:
- Mô Phật có, thầy ấy ở trên chính điện, mời thầy vào phòng ngồi chơi!
Tôi đã quen biết thầy Giác Liêm khi còn theo học tại Phật học viện Thiện Hòa chùa Giác Ngộ. Và cũng từ đấy tôi được biết chùa Phật Bửu. Những lần qua lại trao đổi về việc học với thầy Liêm, tôi được Thượng tọa trụ trì thương mến. Từ đó Phật Bửu Tự là nơi tôi đi lại nhiều nhất và thân nhất trong tất cả các ngôi chùa trong thành phố này. Do vậy, hôm nay khi nhìn kỹ vị sư tôi nhận ra ngay là đã có gặp một đôi lần tại đây. Hồi ấy Thượng tọa trụ trì có kể cho tôi nghe về hạnh tu của vị sư này. Tôi ao ước được tiếp xúc với sư từ lâu và hôm nay nhân duyên đã đến. Bước vào phòng tôi hỏi:
- Bạch sư về trụ ở đây được mấy hôm rồi?
- Ðược hơn một tuần rồi. Mời thầy ngồi nghỉ!
Tôi nhận lời, bước qua ghế ngồi.
- Bạch sư, lâu nay sư ở tịnh xá nào?
Sư mỉm cười, chậm rãi đáp:
- Trò theo hạnh đầu đà, với tam y nhất bát đi chu du hành đạo khắp nơi không trụ một chỗ nào cố định. Ðối với trò thì nơi nào cũng là tịnh xá cả. Thưa thật với thầy, sở dĩ kỳ này trò phải dừng lại ở đây khá lâu là vì chữa bệnh.
Tôi ngạc nhiên hỏi lý do bệnh. Sư tiếp:
- Không giấu gì thầy, cách nay hơn hai tháng trong lúc đang đi khất thực trò bỗng bị xây xẩm mặt mày rồi bị ngất xỉu trên đường. Ðến chừng tỉnh lại thì thấy mình nằm trong Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Hỏi thăm các cô y tá mới rõ là bà con bộ hành đã đưa trò vào. Trong thời gian nằm viện, các bác sĩ cho biết thêm là trò có bệnh gan và phải lưu lại điều trị khá lâu.
Nhìn gương mặt và chân tay sư, tôi hỏi:
- Hình như sư bị phù thì phải?
Sư gật đầu:
- Mô Phật, phù đó thầy.
Sư kéo ống chân quần lên chỉ cho tôi xem. Nhìn ống chân và bàn chân sưng phù bóng láng, tôi tưởng tượng nó giống như đôi chân người chết trôi bị trương lên, chỉ có khác ở màu da là người chết thì trắng còn da sư thì vàng.
- Bệnh sư lúc này đã giảm chưa ạ?
- Cũng tàm tạm thầy à.
- Thế sao sư không ở lại bệnh viện chữa trị cho dứt luôn?
- Nằm gần hai tháng rồi còn gì. Vả lại nhà thương thì thiếu chỗ, bệnh mình cứ trơ trơ chẳng giảm bao nhiêu, trò xin xuất viện về chùa điều trị thuốc ngoài cho thoải mái hơn.
- Trong thời gian sư nằm viện như vậy thì ai thăm nuôi sư?
- Có ai đâu thầy!
- Ủa, không có Phật tử nào biết sư bệnh à?
Vẫn gương mặt bình thản, sư chậm rãi nói:
- Hạnh tu của trò ngày đi khất thực nuôi thân, tối đến giăng võng nơi gốc cây ngủ nghỉ. Có trụ nơi nào lâu đâu mà nhận đệ tử.
Dứt lời sư chỉ chiếc võng dù đang ngồi. Sư cho biết nó là phương tiện rất tốt cho việc du hành tha phương. Ðến đâu sư chỉ việc kiếm chỗ cột hai đầu dây là có nơi nghỉ, nếu cần tránh muỗi và lạnh sư chỉ việc trùm chiếc y thượng lên mình là xong một đêm. Sáng ra sư cuốn gọn, cột tròn lại bỏ vào túi quảy đi. Nghe sư nói tôi hiểu, nhưng lại lấy làm lạ:
- Vậy tiền đâu sư chi tiêu trong thời gian nằm viện?
- “Thâm tín chư Phật giai sung mãn” mà thầy. Sư cười nhẹ. Lo cho mình không tu chớ lo gì túng thiếu. Thầy có tin là trò không một xu dính túi mà vẫn đầy đủ trong lúc nằm viện không?
- Có lẽ bệnh viện miễn phí cho sư?
- Không, trò chi trả hẳn hòi.
- Vậy sư có Thầy Tổ hay thân nhân trợ cấp?
- Cũng không nốt.
Nghe sư nói, lúc đầu tôi còn tin, nhưng bây giờ thì hơi hoài nghi. Nếu không có của riêng, không Phật tử, không Thầy Tổ và gia đình giúp đỡ thì tiền ở đâu mà sư chi dùng. Chả lẽ sư có phép thần thông “úm ba la” là tiền tự hiện ra! Tôi mỉm cười, lắc đầu.
Thấy tôi lộ vẻ không tin, sư gật gù thong thả nói:
- Có gì đâu mà thầy không nghĩ ra, thân nhân những người bệnh nằm cùng phòng thấy trò đơn độc nên đã cảm động bảo nhau giúp đỡ. Mỗi người một ít rồi đâu cũng vào đấy thầy ạ.
Tôi gật đầu, lòng thầm thán phục oai đức sư, vừa trò chuyện tôi vừa quan sát sư, cái thu hút tôi vẫn là giọng nói. Tiếng sư nói thật là trong thanh, nhẹ nhàng và chậm rãi từng chữ, từng câu rất rành rõ. Sư nói ra lời nào là chắc lời đó, không có sự gượng ép hay trau chuốt nhưng cũng chẳng vội vã cẩu thả. Dường như tất cả lời nói ra được thuần thục trong tự nhiên.
- Thế còn việc chữa trị căn bệnh của sư hiện nay ra sao?
- Mô Phật, trò vẫn theo toa bác sĩ mua thuốc uống, nhưng cũng chẳng kết quả bao nhiêu. À, thầy có quen ai làm việc tại Bệnh viện Nguyễn Trãi không?
Câu hỏi hơi bất ngờ nên tôi cố suy nghĩ. Lát sau tôi đáp:
- Dạ, để con về hỏi lại xem sao, nhưng sư cần gì?
- Trò nghe đồn nơi đó chuyên trị bệnh gan hay lắm.
Lúc ấy tôi nhìn thấy thầy Liêm đang đi ở hành lang và xin phép sư ra gặp thầy. Chúng tôi đang trò chuyện với nhau bỗng một tiếng “rầm” phát ra từ phòng sư, sàn gỗ rung rinh. Tôi và thầy Liêm hoảng hồn chạy vào, thì hỡi ơi, thầy sư đang nằm đo ván trên chiếc võng bị đứt dây. Chúng tôi ráng hết sức mới đỡ nổi tấm thân đồ sộ của sư lên giường. Sư cảm ơn và cười gượng nói:
- Không sao, chỉ hơi ê ẩm sau lưng một tí.
Sau đó tôi ra về.
Biết sư muốn điều trị tại Bệnh viện Nguyễn Trãi, tôi đã cố gắng hỏi thăm các Phật tử thân quen, nhưng không có ai làm việc nơi đó cả. Một số người cho biết bệnh viện này chỉ dành riêng cho cán bộ và công nhân viên nhà nước ở bậc cao mà thôi([3]).
Dò hỏi mấy hôm, thấy không hy vọng, tôi
trở lại báo cho sư biết những trở ngại khó khăn ấy.
Trong lúc ngồi tâm sự, sư cho biết ý định là sẽ về núi tu tịnh và nếu bệnh tình bất giảm sư sẽ tuyệt thực bỏ xác trên đó để khỏi làm phiền mọi người. Sư còn kể thêm về người thầy của sư trước kia cũng vậy. Biết mình không còn trụ thế bao lâu nữa, ngài đã vào một hốc đá núi ngồi nhập định cho đến khi viên tịch. Lời kể ấy khiến tôi nhớ đến sự tích sư Vũ Khắc minh tại chùa Ðậu ở miền Bắc mà tạp chí “Buddhists for peace” đã đăng tin. Ngài cũng nhịn ăn và ngồi nhập định cho đến khi hồn lìa khỏi xác. Thân thể khô dần, mặc dù đã trải qua hơn ba thế kỷ mà vẫn tồn tại. Nhìn gương mặt từ bi phúc hậu, với đôi mắt rực sáng đầy nghị lực lại thêm hạnh tu Ðầu đà của sư, tôi tin chắc sư sẽ thực hiện được ý nguyện đó. Tuy nhiên tôi cũng khuyên sư cố tâm chữa bệnh để dùng huyễn thân này làm lợi lạc chúng sinh nhiều hơn. Sư mỉm cười cám ơn.
Ít hôm sau, tôi ghé thăm sư và được thầy Liêm báo tin là sư đã đi đâu từ hai ngày nay rồi. Rất ngạc nhiên tôi dò hỏi thì thầy Liêm cho biết:
- Hôm đi, sư có nói là đi trị bệnh và từ đó không thấy về nữa.
- Thế còn đồ đạc sư vẫn còn để đây chứ?
- Vẫn còn.
- Vậy sư có dặn dò thầy điều gì không?
- Không.
Nghe thầy Liêm nói tôi nhớ lại trước đây có lần tôi gặp sư ngồi thuyết pháp cho các Phật tử nghe. Sau khi giảng xong, sư đứng dậy quảy gói ung dung lên đường không hề luyến tiếc hay vướng bận một điều gì, ngay cả đến lời cầu thỉnh ở lại của Phật tử cũng không làm sư dừng bước du phương. Sư đến và đi như một con nhạn ngàn phương đăng trình. Không ai biết nơi sư sẽ đi và đến. Tuy nhiên ở vào trường hợp này thì tôi có thể dự đoán là sư sẽ đi về núi để thực hiện ý nguyện nhập cốc tuyệt thực. Nhưng để cho chắc ăn hơn, nhất là trong lúc sư đang đau yếu, hai chân lại sưng phù, e rằng điều không may sẽ xảy đến giống như lần trước, nên tôi bàn với thầy Liêm là đi tới các bệnh viện tìm thử. Trình ý kiến này lên Thượng tọa trụ trì Phật Bửu, người rất tán thành và hỗ trợ chiếc xe Honda để chúng tôi làm phương tiện tìm kiếm. Ðến bệnh viện nào chúng tôi cũng hỏi thăm và xem sổ nhập viện có tên sư không. Cuối cùng đã tìm gặp sư tại Bệnh viện Nguyễn Trãi. Thật là một điều kỳ lạ và đầy bất ngờ! Vào đến phòng, chúng tôi thấy sư đang ngồi nói chuyện đạo lý cho các bệnh nhân nghe, vẫn gương mặt bình thản, không một chút ưu tư về những gì đã qua, ngay cả đến sự hiện diện của chúng tôi cũng không làm cho sư ngạc nhiên cho lắm. Thầy Giác Liêm trách sư sao quá vô tâm đến như thế. Ðáng lẽ được nhập viện sư phải về cho chùa biết để khỏi lo lắng kiếm tìm. Riêng tôi chẳng than phiền gì hết, trái lại, còn lấy làm lạ vô cùng về sự hiện diện của sư tại một bệnh viện, nơi mà chỉ dành riêng cho cán bộ và nhân viên nhà nước! Ðể giải đáp những thắc mắc của chúng tôi, sư kể giọng nhỏ nhẹ:
- Thành thật với quý thầy, trò được nghe kể về tài chữa bệnh gan tại đây và đã nhờ nhiều người giới thiệu nhập viện để chữa trị mà không được. Thế rồi trò quyết định tự mình đến xin thử xem có “linh” không. Khi trình bày bệnh trạng với người trực viện, anh ta đòi phải có đầy đủ thủ tục như nội quy đã đề ra. Biết việc này cần phải trực tiếp với người có thẩm quyền, nên trò xin được vào gặp ông Giám đốc, nhưng rồi cũng bị từ chối luôn. Thế là hai món “bửu bối” đem ra xài đều không hiệu nghiệm, trò chỉ còn nước quay về. Vừa quảy gói trở ra thì may thay ông Giám đốc đi ngang qua và thấy trò ông liền ghé vào. Sau khi nghe người trực viện báo cáo, ông Giám đốc mời trò lên phòng riêng thăm hỏi rất ân cần. Hiểu được ý nguyện của trò, ông liền ký giấy cho nhập viện. Ðầu đuôi sự việc diễn biến như vậy đó. Quý thầy thấy mình tu hành có nhiều “phép lạ” không?
Chúng tôi chỉ biết cười và gật đầu khâm phục sư. Nói chuyện với sư khoảng nửa giờ đồng hồ chúng tôi rời khỏi bệnh viện. Trên đường trở về chùa, những ấn tượng đẹp qua buổi tiếp xúc với sư lần này cứ gây cảm xúc trong tôi mãi. Cùng là con người với nhau, chẳng ai giống ai. Có những người khi nhìn qua tướng mạo tự nhiên trong lòng ta khơi dậy những tình cảm tốt đẹp, họ không hề hao hơi, tốn sức thuyết pháp mà vẫn làm rung động được trái tim kẻ khác, với phong thái trang nghiêm như dáng núi, gương mặt tươi vui như hoa nở, tất cả những đặc tính ấy là nguyên nhân chính giúp sư mau chóng thu phục lòng người. Phải chăng cái hảo tướng ấy phản ánh một nội tâm thuần khiết?
Thế rồi thời gian cứ âm thầm trôi qua. Thỉnh thoảng tôi có dịp ghé vào Phật Bửu Tự và biết tin sư qua lời kể của thầy Giác Liêm. Bệnh trạng của sư cũng thăng trầm như sự đời đổi thay thay đổi vô chừng. Tôi e rằng nếu tình trạng này kéo dài sư sẽ về núi theo gương Thầy Tổ thực hiện ý nguyện đã định.
Một tuần sau, thầy Liêm cho tôi biết là sư đã xin xuất viện và lại tiếp tục cuộc du hành. Lần này sư không về núi như tôi vẫn tưởng và cũng chẳng bộ hành như trước, mà là thủy hành! Một thân một thuyền với tam y nhất bát sư du phương trên những con sóng nhấp nhô trôi nổi đến mọi miền đất nước.
13/ Nếu chẳng một phen ...
Ðã lâu lắm rồi, tôi chưa có dịp vào Chợ Lớn. Hôm nay vì cần mua một vài món hàng tôi mới trở lại thành phố Hoa kiều này. Vừa đạp xe tôi vừa nhìn lên những tấm bảng trước các hiệu buôn dọc theo hai bên lộ. Nhà cửa sửa sang lại rất nguy nga tráng lệ với những bảng quảng cáo đa kiểu đa sắc viết bằng chữ Trung Quốc kèm theo chữ Việt Nam. Sau khi tìm mua được những món hàng cần thiết, tôi quay trở về chùa. Ra khỏi Chợ Lớn đến khu vực người Việt Nam buôn bán, tôi chợt nhìn thấy một tấm bảng với dòng chữ: “Tại đây có làm đồ mã”. Tôi hơi ngạc nhiên và tự nghĩ: Chắc lúc này Nhà nước ta đã đổi mới tư duy nên cho buôn bán hàng mã công khai chăng? Nhưng khi nhìn xuống thì thấy những tấm mộ bia, những cây thánh giá và một số bàn ghế bằng đá mài, tôi mới rõ là họ làm đồ mồ mả chứ không phải hàng mã như chữ đã ghi! Thật là tai hại. Chỉ có dấu hỏi và dấu ngã của một chữ thôi cũng đủ làm thay đổi toàn bộ nội dung của câu. Vậy mà không hiểu sao, người Việt Nam lại sử dụng chữ Việt Nam một cách cẩu thả đến thế? Còn gì là niềm tự hào về trình độ học thức của dân tộc Việt Nam khi phô trương trước công chúng những cái sai sót lẽ ra không thể có ở cuối thế kỷ hai mươi này, tại một thành phố tiêu biểu cho nền văn minh tiến bộ! Dường như trường hợp này đã, đang và còn xảy ra rất nhiều trên đường phố, tại văn phòng, nơi hội trường, thậm chí cả đến sách báo và giấy tờ hành chính nữa.
Nhớ lại trước đây tôi cũng xem thường việc đánh dấu hỏi, ngã. Thật ra tôi viết chính tả ít khi bị sai, nhưng lúc đánh dấu thì lại rất cẩu thả. Tôi thường dùng dấu ngã đánh hơi đứng nghiêng lên làm thành dấu hỏi. Có lần làm bài kiểm tra môn Văn tại Phật học viện Thiện Hòa chùa Giác Ngộ do thầy Thích Minh Thành phụ trách, sau khi nhận bài với số điểm thấp và lời phê: “Nội dung bài khá, nhưng viết sai dấu nhiều”. Tôi không đồng ý về lời phê này và lên khiếu nại. Tôi phân trần cho thầy rõ chữ này là hỏi, chữ kia là ngã v.v... Nhưng thầy cương quyết nói: “Hỏi ra hỏi, ngã ra ngã, không thể đánh gian như vậy được”. Tôi ức quá, nhưng không làm sao thuyết phục được thầy đổi ý. Tháng đó bị thụt hạng một cách oan ức, tôi đành ngậm đắng nuốt cay về cố gắng tập viết lại cho cẩn thận. Lúc ấy tôi buồn thầy lắm, nhưng bây giờ tôi lại mang ơn thầy rất nhiều.
Từ việc này tôi liên tưởng đến sự kiện chứng Thánh quả của A Nan. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có hé mở cho chúng ta biết: “Trong kiếp quá khứ Ngài và A Nan cùng phát tâm Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Do công phu tinh tấn Ngài đã thành tựu quả vị Bồ đề, còn A Nan thích đa văn nên vẫn cứ ôm giữ tạng pháp mãi. Ðến khi Ðức Phật Thích Ca nhập diệt, ngài Ca Diếp đã hội họp Thánh chúng để kết tập kinh điển, trong đó có A Nan. Trước khi đại hội, Ca Diếp tuyên bố thẳng thừng nếu ai chưa chứng Thánh quả thì không được tham dự. Thật là một đòn chí tử giáng vào A Nan. Gần năm trăm vị Tỳ kheo lần lượt vào hết chỉ còn lại một mình A Nan ở ngoài. Nghĩ mình vừa là thị giả, vừa là em họ Phật, lại vừa là bậc đa văn đệ nhất nữa, thế mà bị loại khỏi hàng Thánh chúng, thử hỏi còn gì tủi hổ hơn! Ðêm hôm đó A Nan buông bỏ tất cả, tinh tiến thiền định và hoát nhiên chứng ngộ. Sáng hôm sau ông mỉm cười ung dung bước vào đại hội trước sự ngạc nhiên của bao người.
Ðúng như Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận đã nói:
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.
Trích1Hơn năm trăm năm trước Tây lịch vào đêm trăng tròn đầu tiên của tháng Vesakha theo lịch Ấn Độ, Ngài Siddhartha Gautama ngồi xếp bằng theo thế kiết già dưới gốc
Bài học thứ bảy liên quan đến thuật giả kim. Xét trên mọi phương diện thì thuật giả kim là một phép mầu. Bạn không thể biến chì thành vàng bằng cách
ÁP LỰC TỪ PHỤ HUYNH VÀ NHÀ TRƯỜNGTôi là nhà tâm lý học đã làm việc tại Việt Nam gần 8 năm. Trong thời gian đó, tôi chủ yếu tiếp xúc với
1. Mặc dù bị cô lập giữa đại dương, người Nhật cũng đã biết đến Phật giáo khá sớm. Các nhà nghiên cứu cho biết,vào 538 hay 552 Tây lịch tùy theo
TIẾN TRÌNH THÀNH TOÀN TỰ NGÃ – MỘT KINH NGHIỆM CHUNG CỦA NHÂN LOẠITÂM LÝ HỌC CHUYÊN SÂU – LƯU HỒNG KHANH---&&&---& Tiến trình thành tựu bản thân trong cả hai giai
QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,
Giữ giới là lựa chọn tự do Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc
Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt