Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (5)


Xem mục lục

Ngày 20.

Phía dưới chúng tôi khoảng mười ba ngàn mét, biển thật phẳng lì, rất yên lặng, rất mênh mông, trống không mọi vận hành; vùng sa mạc, những ngọn đồi đỏ rực, nóng bỏng, không cây cối, đẹp đẽ và lãnh đạm; và còn có biển với ánh sáng từ xa của phố thị, nơi mọi hành khách cặp bến. Và có tiếng la hét, từng núi hành lý, quan thuế, rồi đi một đoạn dài ngang qua những đường phố thiếu ánh đèn với lòng đường bị đám người ngày càng đông tràn ngập, cả ngàn thứ mùi gay gắt, tiếng nói chát chúa, những đền đài được trang hoàng, những chiếc xe có kết hoa – đó là ngày lễ hội – nhà cửa sang trọng, khu nhà nghèo tăm tối, và sau một đoạn dốc đứng, xe dừng lại và cửa mở. 

Ở đấy có một cây phủ đầy lá xanh, sáng chói rất yên lặng trong tính trang nghiêm, thanh tịnh; nó được nhiều ngôi nhà không cân đối bao bọc chung quanh, dân ở đây không hề nhìn một chiếc lá nào của nó. Nhưng họ kiếm ra tiền, đi làm việc, uống rượu, sanh con đẻ cái và ăn nhậu quá cỡ. Chiều hôm qua, mặt trăng nhô lên khỏi cội cây và bóng cây đen thật là sinh động. Và khi thức dậy, lúc rạng đông, thiền định có hương vị của ánh sáng, với sự hiện diện của bờ bên kia, trong một căn phòng xa lạ. Và một lần nữa an bình mạnh bạo sắp xảy ra, không phải là an bình của nhà chính trị, của giáo sĩ, cũng không phải của những người hài mãn; quá bao la để có thể chứa được trong không gian và thời gian, để có thể khuôn đúc bởi tư tưởng hoặc cảm thức. An bình là sức nặng của quả đất với tất cả mọi vật quả đất cưu mang; an bình là những tầng trời và vượt trên đó nữa. Con người phải dừng nghỉ thì an bình mới xuất hiện. 

Những sự thách thức, bất chấp, những vấn đề về thời gian luôn luôn lặp đi lặp lại, và giải đáp của chúng ta chỉ liên quan đến cái tức thì, và cái tức thì lại cuốn hút chúng ta thường xuyên. Giải đáp tức thì đối với sự đòi hỏi thúc bách lại tùy thuộc vào thế gian với nhiều vấn đề và lo âu dai dẳng. Bậc trí giả giải đáp bằng hành động xuất phát từ những ý niệm do thời gian sinh ra, từ cái tức thì, và những kẻ thiếu suy nghĩ bị ảnh hưởng sẽ noi theo. Giáo sĩ của một tôn giáo có tổ chức, với sự truyền bá và tín ngưỡng, giải đáp sự thách thức theo giáo lý mà ông ta đã được dạy dỗ; những người khác noi theo con đường đã vạch sẵn của chấp nhận hay từ bỏ của thành kiến, của hiềm thù, và mỗi luận cứ, mỗi động tác kéo dài sự thất vọng, rối loạn và phiền não thành một dây xích không dứt. Dẹp bỏ mọi điều này hoặc cho nó một cái tên theo ý ta cũng không phải chấm dứt nó. Nó như thế đó, dù ta muốn hay không, dù ta có quan sát sự vật với óc lý luận hoặc dù ta có cho mọi sự là hư giả, là “maya”. Sự việc là như thế đó, và ta luôn luôn định giá. Chính những giải đáp tức thì này đối với mỗi chuỗi những đòi hỏi tức khắc phải được chấm dứt. Như thế giải đáp của chúng ta đối với đòi hỏi của thời gian sẽ từ cái không ngoài thời gian, hoặc là chúng ta sẽ không giải đáp, đó mới là lời giải chánh đáng. Mọi lời giải phát sinh từ tư tưởng và cảm xúc chỉ có làm kéo dài nỗi thất vọng và lo âu trước những vấn đề không giải đáp được; lời giải tối hậu nằm bên ngoài cái tức thì. 

Tất cả hy vọng, hãnh diện, tham vọng của chúng ta đều nằm trong cái tức thì, dù cho cái tức thì này tự phóng chiếu vào hiện tại hay vào tương lai của nhiều ngày sắp đến. Phiền não xảy ra như thế đó. Chấm dứt phiền não không bao giờ nằm trong giải đáp tức thì đối với vô số thách thức. Chấm dứt phiền não nằm trong sự quán chiếu sự kiện thực tế.  

Ngày 21.

Những cây cỏ đong đưa một cách uy nghiêm, hình như uốn mình một cách thoải mái, dưới cơn gió nhẹ phía tây thổi từ biển; chúng có vẻ như thật cách xa với con đường ngợp người và ồn náo. Một màu sẫm tối dán vào nền trời, thân cây to lớn của chúng nổi bật lên, qua bao năm bền bỉ tinh luyện; chúng ngự trị bầu trời lấp lánh sao, mặt biển nóng bức. Chúng ngả nghiêng đến nỗi cành lá có thể với tới các bạn, kéo các bạn ra khỏi con đường nhớp nhúa, nhưng cơn gió nhẹ ban chiều mang chúng trở về, cử động của chúng chiếm hết bầu trời. Đường phố chật ních người; không bao giờ giữ được sạch sẽ, quá nhiều đờm rãi khạc nhổ, quá nhiều vách tường bẩn thỉu, những tấm “áp phích” quảng cáo phim chiếu mới nhất, những tấm biển tranh cử đầy dấu hiệu của đảng phái; con đường gớm ghiếc này tuy vậy lại là huyết mạch chính của thành phố, một con đường ồn ào, dọc ngang những chiếc xe buýt nhơ bẩn, những chiếc “tắc xi” bóp kèn inh ỏi, và lòng đường làm chứng nhân cho vô số lũ chó chạy qua. Hơi xa một chút, biển và mặt trời lặn, một cục lửa tròn nung nóng mặt nước và vài cụm mây, sau một ngày nóng bức. Biển ở đây thật láng bóng, nhưng lại mơ mộng, không yên nghỉ. Ban chiều quá nóng nên không dễ chịu, và cơn gió nhẹ hình như quên đi nỗi vui mừng. Dọc theo con đường nhớp nhúa, trong cảnh chen lấn của đám đông, thiền định chính là bản thể sự sống. Trí óc rất bén nhậy, chú tâm, hoàn toàn bất động, nhìn những ngôi sao, ý thức những gương mặt, mùi vị tiếng chó sủa. Một chiếc lá vàng đơn độc rơi xuống đường liền đó bị bánh xe cán nát; chiếc lá đầy màu sắc, đẹp đẽ, rất dễ bị hủy hoại. 

Khi chúng tôi bước đi trên con đường có những cây cọ viền quanh, bờ bên kia đột ngột hiện đến giống như một ngọn sóng cưu mang sức mạnh và sự tinh khiết; một làn hương, một cơn gió của cái bao la vô lượng vô biên. Không có cảm thức, ảo tưởng, lãng mạn, tư tưởng mong manh; bờ bên kia ở đó, trong sáng và bén nhọn, không một dợn sóng bất trắc, chính xác và khẳng định. Hiện tại, linh thiêng, không gì có thể đụng chạm đến nó cũng như bẻ gãy cứu cánh của nó. Trí óc nhận thấy những chiếc xe buýt lướt qua, lòng đường ướt nhẹp và tiếng thắng xe rít lên; nhận biết hết mọi vật này và biển cả ở phía xa, trí óc không dính líu đến chúng mà hoàn toàn rỗng rang, không dây mơ rễ má, quan sát từ cái rỗng rang này. “Bờ bên kia” đè nặng, với sự nhấn mạnh bén nhọn. Đây không phải là cảm thức, cũng chẳng phải là cảm giác, nhưng là một sự kiện thực tế, thực như là tiếng gọi của người bộ hành này. Đây không phải là một xúc động, xúc động thì có thể biến đổi, tiếp nối, tư tưởng không có lối vào ở đây. Sự hiện diện của “bờ bên kia” có cái tối hậu của sự chết mà không một lý lẽ nào có thể ngăn cản. Vì không dây mơ rễ má, không gì có thể làm ô nhiễm, nên nó bất hoại.

Ngày 23.

Sự im lìm bất động triệt để của trí óc là một điều kỳ dị; lúc đó trí óc rất ư mẫn tiệp, đầy sức sống mạnh mẽ, nhận biết hết mọi chuyển động bên ngoài, nhưng hoàn toàn yên lặng. Bởi vì trí óc hoàn toàn mở ngõ, thoát khỏi gông cùm xiềng xích, khỏi sự săn đuổi và dục vọng thầm lén; vì được tự do, không bị xung đột, xung đột chủ yếu là một trạng thái đối kháng, nên trí óc tuyệt đối bất động, ở trong trạng thái rỗng rang; cái rỗng rang này không phải là một trạng thái ngoan không, trống trải, đó là năng lượng không có trung tâm, không có biên giới. Bước xuống con đường đầy nghẹt người, nhớp nhúa và bốc mùi khó chịu, trong tiếng xe buýt ồn náo, trí óc nhận thấy sự vật chung quanh và thân thể di động, bén nhậy, nhận biết mùi hôi, sự dơ bẩn, sự có mặt của thợ thuyền nhễ nhại mồ hôi, nhưng nhận biết này không bắt nguồn từ bất cứ một trung tâm quan sát nào, định hướng hay lý luận nào. Trong suốt cuộc hành trình, trí óc không một chuyển động của tư tưởng hay của cảm thức; không quen với cơn nóng dữ dội và không khí ẩm, thân thể bắt đầu mỏi mệt, tuy nhiên mặt trời đã lặn một lúc rồi. Đây là một hiện tượng lạ lùng, mặc dù đã xảy ra nhiều lần. Người ta không quen với loại sự thể này, vì chúng không phát xuất từ thói quen, cũng không từ dục vọng. Dù thế nào đi nữa chúng ta cũng vẫn ngạc nhiên. 

Phi cơ (đi Madras) đầy khách, ngột ngạt, ngay cả ở độ cao ba ngàn thước trên không, có vẻ như không tươi mát. Và, trong chuyến bay ban sáng này, bỗng nhiên và hoàn toàn bất ngờ, “bờ bên kia” hiện đến. Không bao giờ giống cái cũ, luôn luôn mới mẻ, bất ngờ. Thật lạ lùng, tư tưởng không thể bàn cãi về nó được, xem xét nó, quan sát nó tùy thích. Thiền định không can dự vào, bởi vì mỗi lần nó hiện đến, nó hoàn toàn mới mẻ, và bất chợt đến đỗi nó không để lại một kỷ niệm nào. Đây là một biến cố toàn vẹn và đầy đủ, một biến cố không lưu lại dấu vết trong ký ức, vì thế nó luôn luôn mới mẻ, trẻ trung, làm sửng sốt. Nó hiện đến, trong một vẻ đẹp kỳ dị, không phải vì hình thể ảo dị của đám mây rực sáng, cũng không phải vì bầu trời vô cùng xanh biếc và êm đềm; không nguyên nhân, không lý lẽ đối với vẻ đẹp khó tả của nó, và đó chính là điều giải thích vẻ đẹp này. Nó là bản chất, không phải của toàn bộ các sự vật được nhìn thấy và cảm nhận, mà là của mọi đời sống đã qua, hiện tại và sắp đến, đời sống vượt thời gian. Nó ở đó và sự có mặt của nó là sức mạnh cực kỳ của chơn mỹ. 

Chiếc xe nhỏ trở về thung lũng, xa rời phố thị và văn minh; xe leo lên những con đường nhỏ dằn xóc đầy ổ gà rải rác, quẹo nhiều khúc quanh gắt, rên rỉ và đay nghiến, nhưng vẫn chạy trên đường; xe không cũ lắm, nhưng đã được ráp không kỹ lưỡng, xe bốc mùi xăng dầu và gấp rút phóng nhanh hết sức mình về phía chuồng ngựa, dù đường có rải nhựa hay không. Đồng quê thật là tuyệt đẹp; trời đã mưa đêm qua. Những cây me, cây đa, vô số những cây khác đều tràn đầy sức sống, cành lá của chúng quá xanh và mướt, dù một số chắc đã già cỗi. Các ngọn đồi đất đỏ không có gì là cực kỳ, chúng dịu dàng và xưa cũ, có lẽ già nhất trên quả đất này, êm ả trong ánh nắng chiều, và vì thế chúng có sắc xanh lam, cũ kỹ thấy rõ ở một vài ngọn đồi. Một số ngọn đồi nổi đá, khô cằn, và những đồi khác đầy bụi rậm hoặc mọc lên vài cội cây, nhưng tất cả đều thân thiện, chúng như là chứng nhân của mọi đau khổ. Và mặt đất dưới chân đồi màu đỏ, mưa làm đất đỏ thêm; không phải là màu đỏ của máu, của mặt trời hoặc màu nhân tạo, nhưng là màu đỏ của tất cả màu đỏ, tươi sáng và tinh túy đến đỗi làm cho màu xanh chiếu sáng hơn. Một buổi chiều tuyệt vời, không khí tươi mát vì chúng tôi ở độ cao. 

Trong ánh sáng ban chiều, khi màu xanh lam của những ngọn đồi trở nên xanh lam hơn, màu đỏ của mặt đất trở nên đậm đà hơn, “bờ bên kia” xuất hiện trong lặng lẽ, với phép lành. Mỗi lần đều mới mẻ một cách tuyệt diệu, tuy nhiên vẫn luôn luôn là một lần. Hằn dấu một sức mạnh vô song, sức mạnh của hủy diệt, của tổn thương. Đến trong sự toàn vẹn và đi nhanh như tia chớp; khoảnh khắc vượt ngoài thời gian. Một ngày thật mệt nhọc, nhưng trí óc mẫn tiệp một cách lạ lùng và tự quán chiếu, không có người quan sát can dự; quán chiếu không xuất xứ từ kinh nghiệm mà từ cái không.

Ngày 24.

Trăng mọc lên trên đồi, một dãi mây dài bao quanh làm trăng có sắc thái hư ảo. Trăng thật to, đè bẹp ngọn đồi, cả mặt đất và đồng cỏ xanh um; đường trăng hướng về bầu trời trong sáng hơn, nhưng chẳng bao lâu trăng đã mất hút sau đám mây nặng mưa. Vài giọt mưa rơi xuống và mặt đất hoan hỷ; ở đây không mưa nhiều và mỗi giọt mưa đều có giá trị; cây đa to, cây me, cây xoài có thể tranh dành để sống còn, nhưng cây nhỏ và cây lúa đều hoan hỷ dù chỉ được một ít nước mưa. Khổ nỗi chỉ là trận mưa rào ngắn ngủi và chẳng bao lâu mặt trăng chiếu sáng trên bầu trời trong trẻo. Trời mưa như trút trên triền núi, nhưng ở đây, trên mảnh đất khô khan này, mây bay qua. Một buổi tối đẹp đẽ có nhiều bóng hình in sâu. Dưới ánh trăng, cành lá đã được rửa sạch lấp lánh trong bóng đêm im lìm. Lúc đó chúng tôi vừa nói chuyện vừa đi dạo, thiền định lồng trong lời nói và vẻ đẹp trời đêm. Thiền định tiếp tục càng lúc càng sâu, chan rãi bên trong lẫn bên ngoài, nổ bùng, lan rộng. Ta nhận biết được thiền định trong chuyển động; đây không phải là một kinh nghiệm, kinh nghiệm thì hạn cuộc; mọi điều này đã xảy ra. Không phải với sự can dự của con người; tư tưởng không thể chia xẻ, tư tưởng quá biến hoại và máy móc đối với việc này, cảm xúc không thể xen lẫn vào; hoạt động của tư tưởng cũng như của cảm xúc quá rối loạn. Thiền định diễn tiến ở một chiều sâu bất tri không lường nổi. Mọi điều này đều nằm trong yên tĩnh vĩ đại. Thật là hoàn toàn ngạc nhiên, không bình thường chút nào. 

Tàng lá đen sẫm sáng lên, và mặt trăng lên cao di chuyển về hướng Tây, căn phòng tràn ngập ánh sáng. Nhiều giờ trôi qua trước khi bình minh; không một âm thanh, ngay cả chó trong thôn làng cũng im tiếng. Hiện diện trong sáng và chính xác, “bờ bên kia” đòi hỏi một trạng thái thức tỉnh chớ không phải hôn trầm; đây là sự lựa chọn có suy nghĩ cân nhắc, một sự lựa chọn hoàn toàn có nhận biết về việc gì đã xảy ra. Trong giấc ngủ, điều này tưởng như là một giấc mơ, một sự ám thị xuất phát từ vô thức, một mưu mẹo của trí óc, nhưng khi hoàn toàn tỉnh thức, “cái khác đó” thật kỳ dị, và bất tri là một thật tế tiếp chạm được, một sự kiện thực tế chớ không phải ảo ảnh hay chiêm bao. Nó in lại một tính chất – không hiểu chữ này có thích ứng không – không suy lường được và một sức mạnh bất tư nghì. Lại nữa, những từ này đều bao hàm một ý nghĩa nào đó, xác định, truyền thông được, nhưng những từ này sẽ mất hết ý nghĩa khi chúng bắt buộc gợi ra “bên bờ kia”; từ ngữ là biểu trưng, nhưng không một biểu trưng nào có thể đưa đến chơn lý. “Bờ bên kia” ở đó, in dấu một sức mạnh quá ư bất hoại nên không gì có thể hủy diệt nó được, bởi vì không thể đến gần nó được. Cái gì thân thuộc ta có thể với tới được; muốn đối thoại với cái thân thuộc phải có một ngôn ngữ chung, một tiến trình tư duy hữu ngôn hay vô ngôn, và nhất là một sự hiểu biết lẫn nhau. Ở đây không có được như vậy. Ta có thể, đối với việc này, cho nó một tính chất này nọ, nhưng ngay khi nó hiện hành, không còn ngôn từ nữa, trí óc hoàn toàn bất động, không có một chút tư tưởng nào hết. Nhưng “bờ bên kia” tuyệt không liên hệ đến một thứ gì, và mọi tư tưởng, mọi con người, chỉ hiện hữu qua tiến trình nhân quả; do đó, không thể hiểu nó cũng không thể dính líu đến nó. Đó là ngọn lửa không đến gần được, và ta chỉ có thể nhìn nó từ đàng xa. Khi bỗng nhiên thức dậy, nó đã ở đó. Và với nó, một sự xuất thần bất ngờ, một niềm vui không nguyên do, không lý lẽ vì chưa bao giờ tìm cầu, đuổi bắt. Sự xuất thần này vẫn còn ở đó lúc thức dậy như thường lệ; và kéo dài khá lâu.

Ngày 25.

Có một loại cây cỏ cọng dài, thuộc loại cỏ mọc hoang trong vườn và nở bông như chùm lông vàng đỏ, đang rực sáng trong gió nhẹ, uốn cong mình đến độ như muốn gãy, điều không bao giờ xảy ra, trừ phi có gió thật lớn. Đám cỏ loại này màu vàng kem óng ánh làm ta phải nhìn ngắm; chúng nhảy múa khi cơn gió nhẹ lay động và mỗi cọng đều có nhịp điệu riêng, vẻ đẹp riêng; tất cả đều uốn éo thành dợn sóng và, trong ánh chiều, màu sắc của chúng thật là vô tả; đó là màu sắc của hoàng hôn, của mặt đất và những quả đồi vàng, của đám mây. Kế bên chúng, những bông hoa quá rõ ràng, quá hoang dã, đòi hỏi được nhìn ngắm. Những cọng cỏ dại khờ này có nét tinh tế lạ lùng; mùi hương nhẹ nhàng của chúng gợi lên lúa mì thời xa xưa; chúng rất tinh khiết và dũng mãnh, tràn đầy sức sống. Một đám mây chiều hôm bay qua, rực sáng, trong khi mặt trời lặn sau ngọn đồi đen thẩm. Trận mưa rào đã làm cho đất bốc lên mùi thơm, và không khí thật trong lành, dễ chịu. Mưa rồi sẽ đến và cánh đồng tràn trề hy vọng. 

Xảy ra thật đột ngột, khi chúng tôi trở về phòng; nó ở đó, đón chào chúng tôi rất nhiệt tình, độ lượng, quả là không ngờ. Chúng tôi chỉ biết đi qua, trò chuyện này nọ không quan trọng. Sự đón mời của “bờ bên kia” là một va chạm và bất ngờ; nó chờ đợi trong căn phòng, như một khách mời quá ư dạn dĩ thực thà nên mọi sự cáo từ đều vô ích. Nhiều lần, trên cánh đồng của công xã, cách đây xa, dưới bóng mát của vài cội cây, nó chờ đợi nơi khúc quanh trên con đường quá nhiều người đi; và ta ở đó ngạc nhiên, kế bên những cội cây này, hoàn toàn mở ngõ, mong manh, vô ngôn, vô hành. Đây không phải là điều kỳ quặc, tưởng tượng, hay sự phóng chiếu từ ảo tưởng cá nhân; người khác cũng cảm nhận như thế; nhiều lần xảy đến, gần như không tin nổi, bằng sự mời mọc thân tình, mỗi lần đến nó có một tính chất, một vẻ đẹp, một khổ hạnh mới mẻ. Và nó cũng như thế trong căn phòng này. Hoàn toàn mới mẻ, bất ngờ, vẻ đẹp của nó làm cho thân và tâm không chuyển động; mặc dù tâm, trí óc và thân thể trở nên mẫn tiệp, bén nhậy một cách mãnh liệt. Thân bắt đầu run lên và, sau vài phút, “bờ bên kia” rất khoan dung đã rút lui nhanh chóng như khi đến. Không một tư tưởng, không một cảm xúc dị ảo nào có thể gây ra một biến động như thế; tư tưởng dù kiểu nào đi nữa đều ti tiện, tình cảm thì mong manh, dối gạt; không có cái nào hơn cái nào, ngay cả trong những mưu toan điên đảo nhất, chúng đều không thể gây ra những biến động như thế. Những biến động này quá vĩ đại, quá bao la trong sức mạnh và sự tinh khiết của chúng đối với tư tưởng và tình cảm, chúng không có gốc rễ trong khi tư tưởng và tình cảm thì có. Ta không thể mời chúng đến hay giữ chúng lại; tư tưởng – cảm thức có thể buông xuôi theo đủ kiểu mưu mẹo xảo quyệt, nhưng không thể sáng tạo hay chứa đựng “bờ bên kia”“Bờ bên kia” tự có, không có thứ gì có thể chạm đến nó. 

Mẫn tiệp hoàn toàn khác hẳn với lịch lãm; mẫn tiệp ở trong trạng thái toàn vẹn trong khi lịch lãm luôn luôn cục bộ. Không có mẫn tiệp cục bộ, mẫn tiệp phản ảnh nguyên trạng con người, nguyên trạng của ý thức hoặc không gì hết. Mẫn tiệp không thể được gom góp dần dần từ chút một, cũng chẳng phải được đào luyện; nó không phải là sản phẩm của kinh nghiệm hay của tư tưởng, cũng chẳng phải là trạng thái cảm xúc. Nó có tính chính xác, nhưng không lồng trong tính lãng mạn, hư ảo. Chỉ có con người mẫn tiệp mới có thể chạm trán với sự thật mà không tìm cách đào thoát với đủ thứ kết luận, ý niệm, lượng giá. Chỉ có người ấy mới có thể sống một mình và cái một mình đó là hủy diệt. Mẫn tiệp đã tước bỏ hết mọi dục lạc; do đó có khổ hạnh không xuất phát từ dục vọng hay ý muốn, mà từ chính cái thấy và hiểu. Có dục lạc trong lịch lãm; dính liền với giáo dục, văn hóa, môi trường sống. Nó phát huy không ngừng; nó là hậu quả của lựa chọn, của xung đột và phiền não, và luôn luôn hàm ý con người chọn lọc, lọc lừa, phán đoán. Xung đột, đối kháng và phiền não do đó luôn luôn có mặt. Lịch lãm dẫn đến cô độc, bảo thủ đối với kẻ khác, một sự cách ly do lý trí và kiến thức nuôi dưỡng. Dù có được sáng chói về mặt thẩm mỹ và đạo đức, lịch lãm cũng không kém gì một hoạt động vị ngã. Hoạt động này mang đến lòng tự mãn rất lớn, nhưng không phải là niềm vui thâm tột; nó có tính ti tiện, phiến diện và không giá trị lớn lao. Mẫn tiệp và lịch lãm là hai sự việc hoàn toàn khác nhau; cái này dẫn đến cái chết cô độc và cái kia mang đến sự sống bất diệt.

Ngày 26.

Đối diện với hàng hiên, một cội cây có lá to lớn phủ đầy bông hoa thật to màu đỏ, thật kỳ dị, tương phản với màu xanh thẩm tươi thắm nhờ những cơn mưa mới đây. Những bông hoa đỏ, cam này nổi bật trên màu xanh lục và quả đồi đá, chúng như thể đã chiếm hữu mặt đất và lấp đầy khoảng không buổi sáng sớm. Một buổi sáng tuyệt đẹp có mây, ánh sáng thanh khiết, xác định từng màu sắc. Không một chuyển động trong tàng lá, tất cả chờ đợi, còn hy vọng trời mưa; đất cần mưa vì mặt trời nóng cháy. Từ nhiều năm nay, lòng sông vẫn im lìm, dưới đó mọc lên bụi rậm và thiếu nước ở mọi nơi; giếng nước thì ở phía dưới thấp và dân làng sẽ khổ sở nếu trời không mưa nữa. Trên những ngọn đồi mây đen đặc, hứa hẹn mưa tới. Một tia chớp phía xa rồi sấm tiếp theo cơn mưa, vừa đủ cho lúc này; mưa không kéo dài lâu, nhưng bầu trời cho phép hy vọng còn mưa nữa. 

Con đường đi xuống về phía cầu và băng qua lòng một con sông khô cạn; cát màu đỏ; phía Tây, những ngọn đồi đen thẩm, nặng trĩu giấc mơ và, trong ánh nắng chiều, ruộng lúa xanh mướt, mầu mỡ, đẹp vô tả. Phía sau ruộng lúa, cây cối đen thẩm in hình và những quả đồi phía Bắc một màu tím; thung lũng trải dài, dâng hiến cho bầu trời. Chiều nay, tất cả những màu sắc thấy được hay che lấp đều bao phủ hết thung lũng, mỗi thứ có sắc điệu hài hòa và mỗi chiếc lá, mỗi cọng lúa bùng nổ trong niềm vui màu sắc. Màu sắc là chủ tướng và không êm dịu. Mây dồn tới, đen đặc và nặng nề, nhất là trên đồi với tia chớp phía xa, im lặng xuất hiện. Đã có vài giọt nước mưa; mưa rơi trên độ cao và sắp đến chúng tôi. Một phép lành cho mặt đất khô cằn. 

Sau bữa ăn tối nhẹ, chúng tôi trò chuyện với nhau về những vấn đề trường học, về nhu cầu của vật này hay việc nọ, về khó khăn trong việc tìm kiếm giáo sư giỏi, về sự thiếu mưa… Trong lúc họ đang nói chuyện, bất chợt, không ngờ, “bờ bên kia” hiện đến; nó ở đó, bao la vô tận, được tác động bởi một sức mạnh đến nỗi ta phải im bặt; mắt, thân đều cảm nhận, trí óc cũng nhậy cảm, tuy nhiên không tư tưởng. Cuộc nói chuyện không có gì nghiêm trọng lắm và trong không khí cởi mở thoải mái, một sự việc diệu kỳ đã xảy ra. Nó đi theo chúng tôi chí đến giờ đi ngủ và duy trì thành tiếng rì rào suốt đêm. Điều này không thuộc phạm vi kinh nghiệm, nó chỉ ở đó một cách giản dị, bằng một sức mạnh dữ dội, một phép lành. Với kinh nghiệm cần phải có người kinh nghiệm, nhưng khi cả hai đều không, thì hiện tượng tuyệt đối khác hẳn. Không phải là để chấp nhận hay phủ nhận; sự có mặt của nó chỉ đơn thuần là một sự thật. Và sự thật này không dính líu đến một thứ gì, không cả quá khứ lẫn tương lai; tư tưởng không biết làm thế nào thiết lập cách truyền thông với nó. Nếu trên ngôn ngữ thực dụng, lợi ích thì nó không có giá trị, chúng ta không thể rút ra một thứ gì từ đó. Nhưng nó ở đó và ngay cả sự có mặt của nó là sự hiện diện của tình yêu, chơn mỹ, bao la vô lượng. Nếu không có nó thì không có gì hiện hữu. Không có mưa quả đất sẽ diệt vong. 

Thời gian là ảo tưởng. Tương lai và vô số những ngày qua có, thì thời gian đó không phải là ảo tưởng. Tư tưởng sử dụng thời gian để đưa đến một sự thay đổi nội tại, tức theo đuổi một cái cố định, đó chỉ là sự tương tục có điều chỉnh của cái đã là; một tư tưởng như thế quả là lười biếng, hẹn lần hẹn lựa, tư tưởng này ẩn nấp sau ảo tưởng, sau sự tiến bộ dần dần, những lý tưởng, thời gian. Bằng vận hành của thời gian không thể có chuyển hóa được. Phủ nhận thời gian chính là chuyển hóa; có chuyển hóa khi đã loại bỏ những thuộc tính phát minh từ thời gian tức là thói quen, truyền thống, cải cách, các lý tưởng. Phủ nhận thời gian thì có chuyển hóa, chuyển hóa toàn diện và không phải là thay đổi hình tướng bên ngoài, cũng không phải thay thế một hình tướng này bằng một hình tướng khác. Nhưng thu đạt kiến thức, kỹ thuật, đòi hỏi phải có thời gian, ta không thể cũng chẳng nên chối bỏ; những năng lực này thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày. Thời gian cần thiết để đi từ chỗ này đến chỗ khác không phải là ảo tưởng, nhưng mọi hình thức khác của thời gian đều là ảo vọng. Chuyển hóa gồm có chú tâm mà từ đó sinh khởi một hình thức hành động khác. Hành động này không biến thành thói quen; sự lặp đi lặp lại một cảm giác, một kinh nghiệm, một kiến thức làm chết cứng trí óc và lúc đó trí óc hết nhậy cảm đối với sự chuyển hóa. Đức hạnh trong trường hợp này không phải là một khuynh hướng tốt nhất, một cách xử sự tốt nhất; đức hạnh không có hoạch định, không có giới hạn; nó đã mất hết dấu ấn của sự kính trọng; nó không phải là một lý tưởng cần phải đạt đến, được tạo dần theo thời gian. Đức hạnh lúc đó biến thành mối nguy và không còn là một đức tính được xã hội thuần hóa. Yêu thương là hủy diệt, đó là một cuộc cách mạng không phải là kinh tế hay xã hội, nhưng lại dấn thân toàn bộ vào tâm thức. 

Ngày 27.

Nhiều người chúng tôi ca hát và ngâm tụng, học những đoạn thơ và bài ca mới. Căn phòng trổ ra khu vườn được chăm sóc cực nhọc, vì nước hiếm; với những chiếc xô nhỏ làm từ bình xăng, người ta đã tưới bụi kiểng và cụm hoa. Đây là một khu vườn khá xinh xắn, nhiều bông hoa, nhưng cây cối vẫn mạnh hơn; hình dáng các cây thật đẹp và các cành đâm nhánh rất rộng, phủ đầy hoa từng thời kỳ. Một cội cây duy nhất còn nở vào những ngày này, cánh hoa to màu đỏ, cam, thật là sung mãn. Những cây khác có lá nhỏ, mỏng, thanh tú, chúng trông giống như “mimosa”, nhưng tàng lá nhiều hơn. Biết bao chim chóc đã đến đây và giờ đây, sau hai trận mưa lớn, chúng hoàn toàn tả tơi, bị ướt đến tận xương, bộ lông đẫm nước. Có con chim màu vàng, đôi cánh đen, lớn hơn con sáo đá, gần bằng con chim hét; bộ lông của nó thật là sáng chói đối với màu xanh thẩm của tàng lá, và đôi mắt long lanh quan sát mọi thứ, một chút nhúc nhích trong lá cây cũng như đường đi lối về của những cánh chim khác. Hai con chim hét đang đậu gần con chim vàng, trên cùng một cây, chúng đang rỉa lông đuôi và vỗ cánh để hong khô; nhiều con chim khác lớn nhỏ đủ cỡ đến trên cây này, tất cả đều bén nhậy, hay nhìn, sống chung hòa bình với nhau. Thung lũng hẳn là cần đến mưa, và mỗi giọt mưa đều được chào mừng; giếng nước thì rất thấp, những hồ chứa của thành phố thì cạn ráo, nước mưa này sẽ làm đầy hồ. Hồ đã khô từ nhiều năm nay và bây giờ hy vọng lại trổi dậy. Thung lũng thật đẹp, tươi mát, được nước mưa rửa sạch, đầy một màu xanh phì nhiêu, muôn vẻ muôn sắc. Trên đồi, những viên đá cũng được rửa sạch, sức nóng của chúng cũng đã tan biến, và những bụi rậm gầy còm nằm trên sườn đồi hình như cũng hạnh phúc; lòng sông khô cạn ca hát trở lại. Đồng quê đã tìm lại được nụ cười. 

Ca hát, ngâm tụng, vẫn tiếp tục trong căn phòng không bàn ghế này, và có vẻ như bình thường, tiện nghi khi ngồi dưới đất. Vào giữa một bài hát, bỗng nhiên, bất chợt, bờ bên kia xuất hiện; những người khác vẫn tiếp tục, nhưng không bao lâu, tuy không ý thức đến họ cũng trở nên im lặng. Nó ở đó, với phép lành, tràn ngập không gian, phân cách giữa trời và đất. Đối với những việc thông thường sự truyền thông có thể đạt đến một mức độ nào đó; ngôn ngữ có một ý nghĩa, nhưng, khi chúng ta cố gắng khơi dậy những biến động không thể mô tả bằng từ ngữ, ý nghĩa giới hạn của ngôn từ sẽ hoàn toàn rơi mất. Tình yêu không phải là danh từ do người ta gán ghép, nó là một cái gì khác hẳn khi ngôn ngữ rơi rụng, luôn cả sự phân hai ngu xuẩn giữa cái đang là và cái không phải là. Biến động này không phải là một kinh nghiệm, một đối tượng của tư tưởng, sự ghi nhận của biến động ngày hôm qua, cũng chẳng phải là một sản phẩm của ý thức dù tận một chiều sâu nào đó. Nó không bị thời gian chạm đến. Nó vượt ra ngoài, bên trên mọi thứ này; nó có mặt và điều này đã đủ đối với cả trái đất. 

Mọi lời cầu nguyện đều là van xin, và không có yêu cầu khi mọi sự đều rõ ràng sáng sủa, khi tâm trí hết gánh nặng. Trường hợp có đau khổ, theo bản năng lời van xin tuôn lên trên môi để xoay sang hướng khác nỗi đau đớn đó, hay cầu được một lợi lạc nào đó. Người ta hy vọng rằng có một ông Trời ở cõi đất này hoặc thánh thần sẽ đáp ứng một cách thuận lợi, và đôi khi ngẫu nhiên hay có sự trùng hợp lạ lùng làm cho lời cầu nguyện được chấp thuận. Trời đã chứng giám, niềm tin được xác chứng. Thánh thần của con người, chỉ những vị thánh thần thực sự, đều ở đó để làm họ vững lòng, bảo vệ họ, để đáp ứng mọi lời cầu nguyện, cao quý hay ti tiện. Thánh thần này thì đầy rẫy, trong mỗi nhà thờ, mỗi đền chùa. Thánh thần trên cõi đất còn quyền lực hơn nữa, ở gần hơn nữa; mỗi tình trạng đều có. Nhưng dù cho có mọi hình thức cầu nguyện và van xin, con người vẫn còn đau khổ. Chỉ có nhiệt tâm với sự hiểu biết mới có thể chấm dứt đau khổ, nhưng kiểu khác thì dễ hơn, đáng kính, ít khó khăn. Và đau khổ làm khô kiệt trí óc và thân thể, đưa đến chết cóng, trơ lì, mỏi mệt. Hiểu biết đòi hỏi tự tri, đây không phải là vấn đề của một thời khắc; học về chính mình là một bổn phận vô hạn định, ở đó là tính cao cả, là chơn mỹ. Nhưng tự tri là việc làm từng giây từng phút, và chỉ có trong thực tại hiện tiền; cũng giống như sự hiểu biết không có tính tương tục. Chính thói quen, tiến trình máy móc của tư tưởng đưa đến tính tương tục. Sự hiểu biết không có tính tương tục.

Ngày 28.

Một cánh hoa đỏ trong tàng lá đen sẫm, từ mái hiên ta chỉ thấy cánh hoa này. Có những ngọn đồi, cát màu hung đỏ của lòng sông khô cạn, cây đa to và vô số cây me, nhưng ta chỉ thấy có mỗi cánh hoa đó, rất vui nhộn, đầy màu sắc; không có màu khác; những đốm xanh trời, những đám mây sáng lấp lánh, màu tím nhạt của đồi, màu xanh mướt của ruộng lúa, tất cả đều mờ nhạt và chỉ còn màu sắc lạ kỳ của đóa hoa đó. Hoa bao trùm bầu trời, thung lũng; hoa sẽ phai tàn và rơi rụng; hoa không còn nữa và đồi sẽ tồn tại. Nhưng sáng nay hoa là vĩnh hằng, vượt ngoài mọi thời gian, mọi tư tưởng; hoa bao hàm tất cả tình yêu và niềm vui, nơi hoa không có tình cảm, cũng chẳng có những điều vô lý lãng mạn; hoa cũng chẳng phải biểu trưng của một cái gì khác. Tự hoa là chính nó và sẽ chết đi chiều nay, nhưng nó dung chứa cả sự sống. Nó không phải là đối tượng của lý trí hay của phi lý, một cái gì hư ảo lãng mạn; nó thực như là những quả đồi này và những tiếng kêu gọi nhau. Đó là thiền định toàn mãn của sự sống, và ảo tưởng chỉ có khi tác động của thực tại không còn nữa. Cụm mây này sáng rực là một thực tại mà vẻ đẹp sẽ không tác động mạnh trên một tâm trí chết cứng, trơ lì và ảnh hưởng, thói quen và sự đuổi bắt không ngừng tìm kiếm an toàn. An toàn, dù ẩn náu trong tiếng tăm, tương giao hay kiến thức, sẽ hủy diệt tính mẫn tiệp và suy bại sẽ ngự trị. Bông hoa này, những ngọn đồi và biển xanh đang chuyển động bất tận, cũng như những quả bom nguyên tử, là những thách thức của sự sống và chỉ có tâm trí mẫn tiệp mới có thể giải đáp toàn diện: chỉ có một lời giải đáp toàn diện cho phép con người không xung đột, và xung đột là dấu hiệu của lời giải đáp cục bộ. 

Những người mệnh danh là thánh nhân và khất sĩ đã góp phần làm tê cứng tâm trí, hủy diệt tính mẫn tiệp. Mọi thói quen, mọi sự lặp đi lặp lại, mọi nghi lễ do đức tin và giáo điều củng cố, những giải đáp bằng thức tình, có thể được tinh lọc và đã tinh lọc, nhưng tính sáng suốt bén nhậy, tính mẫn tiệp là một việc hoàn toàn khác hẳn. Để nhìn thấy tận cùng cái ngã, tính mẫn tiệp tuyệt đối thiết yếu; chuyển động vào nội tại này không phải là một phản ứng đối với bên ngoài; trong và ngoài đều dẫn xuất từ cùng một chuyển động, chúng không khác. Phân chia chuyển động này thành bên trong và bên ngoài đưa đến tính trơ lì. Tự nhiên là bên ngoài sẽ chảy vào bên trong; chuyển động nội tại có một vận hành riêng biệt, dù có biểu lộ ra bên ngoài, cũng không phải là một phản ứng bên ngoài. Tính mẫn tiệp là nhận thức của chuyển động này trong toàn thể của nó.

Ngày 29.

Thực sự đây là một buổi chiều đẹp lạ lùng. Trời mưa bụi từng cơn suốt cả ngày và chúng tôi đã giam mình trong phòng; có một cuộc nói chuyện, những buổi hội kiến, v.v… Nhiều giờ qua trời không mưa nữa và rất tốt để đi ra ngoài. Hướng tây, mây xám, gần như đen kịt, nặng trĩu nước mưa và sấm sét; lơ lững trên đồi, tô thành một màu phớt tím, tạo một sức nặng hăm dọa, bất thường. Mặt trời lặn trong mớ lộn xộn mây mù. Hướng đông, đám mây tích khổng lồ nổi lên, đầy ánh nắng chiều, mỗi cụm đều có hình nét riêng, màu sắc riêng; chúng ngự trị những ngọn đồi, bừng rộ sức sống, bay lên đến tầng trời thật cao. Có những đốm trời xanh, thật là xanh biếc, một màu lục tinh tế đến đỗi hòa tan trong màu trắng chói chang của đám mây đang nổ tung. Vẻ đẹp như tượng khắc của những quả đồi in dấu nét uy nghi trường cửu; trong đó có một quả đồi trong suốt thanh lịch lạ lùng, tỏa ra từ bên trong, phi thực; một quả khác, đen thẩm và đơn độc, như được điêu khắc trong đá hoa cương với đường nét của tất cả đền đài trên trái đất. Mỗi cái đều có sinh khí, như đang chuyển động, xa vời trong tính vĩnh hằng của nó. Một buổi chiều tuyệt vời, đẹp đẽ, yên tĩnh và đầy ánh sáng. 

Ban đầu, chúng tôi cùng bước đi với nhau, rồi chúng tôi đều im tiếng và hơi tách xa nhau. Con đường dọc theo thung lũng rất sơ sài, băng ngang những lòng sông khô cạn, đầy cát đỏ, nơi chỉ có đường nước chảy mỏng như lưới. Rồi thì con đường rẽ sang hướng đông. Có một trang trại màu trắng dưới lòng thung lũng, cây cối bao quanh, nhưng chỉ có một cội cây là ngự trị hết. Đây là cái nhìn an bình và cánh đồng hân hoan. Để trở về nhà ta phải đi bộ hơn cây số, ngang qua ruộng lúa phì nhiêu; căn nhà yên tĩnh. Chúng tôi thường nhìn thấy nhà từ con đường này, con đường duy nhất mà xe cộ và khách bộ hành phải đi để ra khỏi thung lũng. Căn nhà trắng này có vài cội cây bao quanh, đã ở đây từ nhiều năm và lúc nào nhìn thấy cũng dễ chịu, nhưng chiều nay, khi xuất hiện ở khúc quanh con đường, vẻ đẹp căn nhà và cảm xúc từ đó gây ra hoàn toàn khác hẳn. Bờ bên kia ở đó, ngược lên thung lũng như màn mưa rơi; nó hiện đến như cơn gió nhẹ, dịu dàng, không mạnh bạo, bao trùm chúng tôi, thấm sâu vào chúng tôi. Nó không phát xuất từ tư tưởng, từ cảm thức, cũng không từ một tưởng tượng ngu ngông của bộ óc. Mỗi lần là toàn mới, lạ kỳ, sức mạnh của nó quá tinh khiết và bao la, thật ngạc nhiên và chứa đầy niềm vui. Đây là một cái gì hoàn toàn bất tri, và cái hữu tri không chạm đến được. Chỉ cái đã biết chết hẳn mới làm cho nó hiện hữu. Kinh nghiệm thì phát xuất từ cái đã biết, nhưng đây không phải là một kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm đều bộc lộ một trạng thái non nớt. Chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm về một cái gì mà ta đã biết. Nhưng bờ bên kia không thể là đối tượng của kinh nghiệm hay kiến thức, mọi dạng thức tư duy, mọi cảm thức đều phải dừng bặt, bởi vì chúng đều là cái đã biết, cái khả tri; trí óc, toàn bộ tâm thức đều phải được khai phóng khỏi cái đã biết, không với một chút nỗ lực nào. Sự hiện diện của bờ bên kia bao quanh chính nó, ngay trong nó và ta bước đi trong nó, với nó. Những ngọn đồi, cánh đồng, mặt đất đều bị nó bao trùm. 

Sáng nay khá sớm, mọi vật đều còn mờ tối. Đêm qua có bão, trời mưa; cánh cửa sổ va đập và nước tràn vào phòng. Không thấy một vì sao nào, bầu trời và ngọn đồi phủ đầy mây, và cơn mưa trút xuống dữ dội, ồn ào. Thức dậy, mưa đã tạnh và mọi vật còn tối. Thiền định không phải là một sự luyện tập theo một hệ thống, một phương pháp; những thứ này chỉ có làm ngu tối trí óc và luôn luôn chỉ cho phép một chuyển động bị giới hạn nơi bờ mé của cái đã biết; phạm vi hoạt động này chỉ bao gồm ảo tưởng, thất vọng. Mọi sự đều yên lặng vào thời điểm tinh sương này, từ chiếc lá đến cánh chim đều chưa động đậy. Trào vọt lên từ những chiều sâu không dò, thiền định vẫn tiếp tục càng lúc càng tăng cường, chuyển động lan rộng, thấm nhuần trí óc với sự lặng im hoàn toàn, trút bỏ trí óc hết mọi dấu vết, mọi hình bóng của cái đã biết. Một cuộc giải phẫu không có người giải phẫu, không có phẫu thuật gia; cuộc giải phẫu này tiếp tục và, giống như một chuyên gia đang mổ bệnh ung thư, mỗi mô nhiễm bệnh đều bị cắt bỏ để ngăn chận cơn bệnh lan truyền. Kéo dài suốt một tiếng đồng hồ, thiền định không có người tọa thiền. Vì ngu xuẩn, vì kiêu mạn, vì khát vọng và tham lam, con người thiền định là xiềng xích. Con người thiền định là tư tưởng được nuôi dưỡng với những thứ xung đột, phiền não và, trong thiền định, tư tưởng phải vắng lặng triệt để. Đây là nền tảng của thiền định.

Ngày 30.

Khắp nơi, đều là yên lặng; những ngọn đồi im lìm, cây cối bất động và lòng sông cạn khô; chim chóc đã tìm được nơi trú ẩn ban đêm, và mọi vật đều im tiếng, ngay cả lũ chó trong làng. Trời đã mưa, mây đứng im. Im lặng gia tăng, tăng cường, lan rộng hơn, thâm sâu hơn. Sự vật bao quanh chúng tôi biến thành nội tại; trí óc, chú tâm vào sự im lặng của đồi núi, cánh đồng và lùm cây, chính nó cũng lặng im và không còn lắng nghe nữa; vượt qua hết mọi sự này, trí óc tự nhiên làm cho yên tĩnh, không có mệnh lệnh, tuy vậy vẫn sẵn sàng phản ứng ngay tức khắc. Tĩnh lặng đến cùng tột, như chim xếp cánh, trí óc tự mình rút lui; không mê ngủ, không lười biếng, nó thấu nhập tận những chiều sâu đã vượt qua nó. Trí óc chủ yếu phiến diện do bản chất có những hoạt động gần như máy móc; những hoạt động của nó cũng như những phản ứng của nó đều tức khắc, dù nó có diễn dịch bằng ngôn ngữ của tương lai. Tư tưởng của nó, cảm thức của nó đều là bề mặt, ngay cả khi cần phải suy tư, cảm xúc đến ranh giới của tương lai hay quá khứ. Chiều sâu của mọi kinh nghiệm, mọi kỷ niệm đều va chạm với ranh giới của chính nó, nhưng trí óc, vắng lặng và quay về tự kỷ, không còn cảm giác một thứ gì, không bên ngoài cũng không bên trong. Tâm thức, thành lập từ những mảnh vụn của biết bao kinh nghiệm, bó buộc, sợ hãi, hy vọng và thất vọng, biết bao quá khứ cũng như tương lai, những đối kháng thuộc về chủng loại và những hoạt động vị ngã, đã vắng lặng, phi hữu. Con người toàn diện đã hoàn toàn lặng lẽ; điều này càng mạnh thêm, nhưng không thể lượng giá bằng từ ngữ hơn hoặc kém; điều này thật mãnh liệt và ta thấu nhập vào một chiều sâu – hoặc chính chiều sâu này phát sinh – mà tư tưởng không với tới được, cảm tính và ý thức không đạt đến được. Kích thước này vượt ngoài tầm của trí óc, trí óc không thể nắm bắt cũng như hiểu biết được. Như thế, không có người quan sát làm chứng nhân cho chiều sâu này. Con người với toàn bộ phận của mình đều bén nhậy, mẫn tiệp, nhưng bất động một cách mạnh mẽ. Chiều sâu mới mẻ này lan rộng, nổ tung, truyền đi thật xa, phát triển khi nổ tung nhưng ngoài tầm của thời khắc, vượt ngoài thời gian, không gian. 

  Ngày 31

Một buổi chiều đẹp; không khí tinh khiết, những ngọn đồi nhuộm màu xanh, tím, đỏ tía sẫm; đồng ruộng được dẫn nước tràn đầy toàn những màu xanh, màu có khí sáng hay giống kim loại, hay hơn nữa rọi sáng tận đáy; vài cội cây đã rút lui vào màn đêm lặng thinh, những cây khác vẫn còn mở ra cho ánh sáng ban ngày. Phía tây tối sầm, nhưng phía bắc, đông, mây vẫn còn phản chiếu ánh nắng, mặt trời đã lặn sau những ngọn đồi đỏ tía. Gần như không một bóng người trên đường, vài khách bộ hành hiếm hoi im lặng, không một đốm màu xanh trên bầu trời, mây ùn đống trước màn đêm. Tuy nhiên mọi vật như còn tỉnh thức, đá, lòng sông khô cạn, bụi cây trong buổi ngày tàn. Dọc theo con đường yên lặng vắng vẻ này, thiền định chợt hiện đến như một cơn mưa nhẹ rơi xuống đồi; thiền định hiện đến thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên cũng như màn đêm sát bên. Trong thiền định không một chút nỗ lực, không kiểm soát, cũng không tập trung hay phân tán tư tưởng kèm theo đó; không chỉ đạo, cũng không đuổi tìm, không từ khước hay thọ nhận, cũng không tương tục do ký ức. Trí óc, tuy nhận biết mọi vật chung quanh, vẫn lặng yên, không phản ứng; không chịu một ảnh hưởng nào, nhưng nhận biết hết mà không phản ứng. Trí óc thật tĩnh lặng; ngôn ngữ và tư tưởng đều bị xóa tan. Năng lực kỳ dị này, đặt tên là gì cũng không quan trọng, đang có mặt và sinh động một cách thâm sâu, không đối tượng, không mục đích; nó là sáng tạo, nhưng không có giấy vải cũng chẳng có thạch cao, và nó có tính hủy diệt. Đây không phải là sản phẩm của trí óc loài người, biểu lộ và suy thoái. Năng lực này không thể tiếp chạm, phân loại, phân tích, tư tưởng cũng như cảm thức không phải là những khí cụ để hiểu biết nó. Nó hoàn toàn một mình trong tầm sâu rộng, trong tính bao la vô lượng của nó. Khi đi bộ dọc theo con đường trong bóng tối càng lúc càng dày, đây là trạng thái xuất thần của cái bất khả, không phải của cái thành tựu, cái đạt đến, cái thành công và những đòi hỏi ấu trĩ, mà là cái một mình của cái bất khả. Cái khả dĩ là máy móc, và cái bất khả mà xem xét được, cố gắng và đạt đến được thì lần lượt sẽ biến thành máy móc. Nhưng xuất thần thì không có nguyên nhân cũng chẳng có lý lẽ. Nó ở đó, thật dung dị, không phải là một kinh nghiệm mà là một thực tế, không có vấn đề phải thừa nhận hay phủ nhận, bàn cãi hay phẫu tích. Cũng chẳng cần truy tìm, bởi vì không có con đường nào dẫn đến nó. Mọi sự đều phải chết đi để nó sống lại, nó là cái chết, là hủy diệt, nó là tình yêu. 

Một người nông dân yếu đuối, áo quần dơ bẩn và rách bươm đi về nhà, dắt theo con bò trơ xương.

Ngày 1 - 11.

Bầu trời bị những bãi lửa lạ kỳ khổng lồ thiêu hủy; phương nam đang bốc lửa, mỗi cụm mây ganh đua màu sắc, giận dữ đến bùng nổ. Mặt trời đi ngủ sau quả đồi có hình nhân sư trông nghiêng, nhưng màu sắc, vẻ thanh lương ban chiều đều vắng lặng, mọi vật đều mờ nhạt. Chính phía đông và nam giữ lại cái cao cả của một ngày đang tàn. Phía tây màu xanh, như nét đẹp ban ngày, một bông hoa thanh tú có cánh mỏng trong suốt bị tan biến khi chạm đến; một màu xanh đậm đà, với hào quang chiếu sáng thật kỳ diệu màu lục nhạt, tím và màu trắng gay gắt; từ đông qua tây, ánh sáng đó chiếu vào bầu trời những tia màu xanh tuyệt diệu. Giờ đây, phương nam đầy những ánh lửa to lớn gần như còn mãi. Cắt ngang màu xanh mềm mại của thửa ruộng là cánh đồng nhỏ trồng mía đang trổ cờ; trông giống như những chiếc lông nhẹ tênh, màu hơi tím và ngả sang màu kem vàng nhạt và dịu của chim ngói. Cánh đồng mía này trải dài ngang ruộng lúa phì nhiêu, và ánh sáng ban chiều dẫn dắt nó đến tận quả đồi để rồi tan hòa. Ngọn đồi, bông hoa, đất đỏ và bầu trời mờ tối đều hớn hở, hợp nhất với nhau trong niềm vui chiều nay, một buổi chiều thuộc về họ. Trên nền trời giờ đây đã được mưa rửa sạch, mỗi vì sao xuất hiện là ánh sáng tuôn chảy sau đó. Buổi sáng trước bình minh khá lâu, Orion đơn độc trên bầu trời và những quả đồi im tiếng. Chỉ có một tiếng rú lớn băng ngang thung lũng, một tiếng khác chát chúa hơn vang dội lại; cả hai vang xa trong không khí tinh khiết, nhưng đến gần và gặp nhau rồi im bặt chốc lát trong một lùm cây; tiếng kêu gọi nổi lên trở lại, nhịp nhàng và êm dịu, tiếng này thấp hơn tiếng kia, chẳng bao lâu bị ngắt quãng bởi tiếng một người đàn ông và tiếng chó sủa. 

Đây là thiền định trong cái không, cái rỗng rang vô hạn lượng. Tư tưởng bắt nguồn từ thời gian cũng như tình cảm đã làm biến thể tình yêu, cả hai không thể nào bắt kịp. Đây là cái không không có không gian. Trí óc chẳng can dự một mảy may nào vào thiền định; nó hoàn toàn yên lặng và, trong sự yên lặng đó tự ý ra vào, nhưng không chia xẻ một chút nào với cái không bao la vô tận. Tâm nhận được, thấy được hoặc biết được một cách toàn diện, thật ra đối với tâm biến động này chẳng phải bên ngoài, chẳng phải xa lạ. Tư tưởng làm trở ngại thiền định, nhưng chỉ riêng có thiền định mới phá tan trở ngại đó. Bởi vì tư tưởng làm tan biến năng lực mà cốt tủy là sự tự do đối với tư tưởng, đối với cảm thức.  

Ngày 2.

Bầu trời bị che phủ, tất cả những ngọn đồi đều nặng mây đang ùn đống từ mọi phía. Có một chút mưa phùn, không một góc trời màu xanh; mặt trời đã lặn trong bóng tối, cây cối xa lạ, cách khoảng. Một cây cọ già mọc thẳng đâm lên trời mờ tối, chỉ có nó là còn bắt được một chút ánh sáng; lòng sông đều lặng im, cát đỏ và bờ ẩm ướt, nhưng không một tiếng hát; chim chóc trú ẩn dưới tàng lá dày và ngậm mỏ. Ngọn gió đông bắc thổi đến, kéo theo những cụm mây đen mới và cả một trận mưa rào thất thường. Và trước mặt chúng tôi, con đường vắng vẻ; màu đỏ, gồ ghề, đầy cát, có những quả đồi tối sẫm nhô cao; con đường dễ thương, gần như không một chiếc xe, chỉ có những nông dân đi nhờ từ làng này qua làng nọ, trên những chiếc xe bò; dơ bẩn, ốm trơ xương, bụng lép, ăn mặc rách rưới, nhưng can đảm, chịu đựng; họ đã sống như thế từ nhiều thế kỷ nay, không một chính phủ nào có thể thay đổi được ngay tình trạng này. Tuy nhiên, dù có mệt mỏi trong ánh mắt, họ vẫn cười. Họ vẫn có thể nhảy nhót sau một ngày cày bừa nặng nhọc, lửa ấm vẫn nằm trong lòng họ; chắc chắn họ không bị thua thiệt thất bại. Từ nhiều năm nay, đồng ruộng không nhận được trận mưa to nào, có lẽ rồi đây sẽ sung sướng, sẽ được mùa, được thêm rơm rạ cho đàn gia súc gầy còm. Và con đường tiếp tục cho đến ngõ mở vào thung lũng, gặp lại con đường cái nơi xe buýt và xe hơi chạy qua. Và con đường này dẫn đến những thành phố xa xăm và dơ bẩn với nền công nghiệp, nhà cửa giàu có, đền đài và những vị thần linh đã tắt. Ở đây, trên con đường tự do này, ngự trị nỗi cô đơn và vô số những ngọn đồi tôn kính, lãnh đạm. 

Thiền định là ở chỗ làm tâm trống rỗng hết mọi tư tưởng, mọi cảm thức, vì những thứ này làm tan biến năng lực; chúng có tính lặp đi lặp lại, đưa đến những hành động máy móc, hành động này là thành phần cần thiết cho sự sống. Nhưng chúng chỉ là một thành phần, tư tưởng và cảm thức không thể biết thâm nhập vào cái bao la vô vận của sự sống. Cần phải có một sự tiếp cận hoàn toàn khác hẳn; không phải là con đường của tập quán thói quen, của sự kết hợp, của cái đã biết; cần phải thoát khỏi mọi thứ này. Thiền định là ở chỗ trút bỏ cái đã biết khỏi tâm, điều mà tư tưởng hay lệnh truyền âm thầm của nó, cũng như dục vọng lồng trong lời cầu nguyện, hay sự thôi miên của ngôn ngữ, hình tướng, hy vọng và kiêu mạn, mặt nạ của bản ngã, đều không thể làm được. Mọi thứ này phải được phá tan một cách dễ dàng, không nỗ lực, không lựa chọn, trong ánh đuốc của một tâm thức sáng suốt. 

Và bây giờ, khi bước đi trên đường, trí óc hoàn toàn trống rỗng và tâm thoát khỏi mọi kinh nghiệm, mọi kiến thức của những ngày qua, dù đã có hằng hà sa số. Thời gian xuất phát từ tư tưởng đã dừng bặt; triệt để không có một máy động nào, không trước, không sau, không đi, không đến, không bất động. Khoảng cách không gian không còn nữa; ngọn đồi, lùm cây ở đó, nhưng không còn được lượng giá bằng từ ngữ cao hay thấp. Không một liên hệ với bất cứ một thứ gì, nhưng có nhìn thấy chiếc cầu, người qua lại. Tâm trong tính toàn thể bao trùm cả trí óc, tư tưởng của nó, cảm thức của nó đang rỗng rang; và từ cái rỗng rang đó, năng lực càng lúc càng thâm sâu, lan rộng, vô lượng. Bởi vì mọi so sánh, mọi lượng giá đều xuất xứ từ tư tưởng tức là thời gian. “Bờ bên kia” là tâm phi thời gian, là hơi thở của chơn chất an nhiên và của cái bao la vô tận. Ngôn từ không phải là thực tại; chúng chỉ là một phương tiện truyền thông chớ không phải là cái chơn chất an nhiên, cái vô lượng vô biên. Cái trống rỗng là cái một mình.

Ngày 3.

Một ngày tẻ nhạt và nặng nề; mây dồn đống và mưa trút xuống. Lòng sông màu đỏ được một ít nước, nhưng trên mặt đất còn cần phải hứng đầy thùng đựng, bồn chứa và giếng nước; mưa sẽ ngưng trong nhiều tháng liên tiếp và nắng sẽ thiêu đốt ruộng đồng. Nhu cầu về nước thật là cấp bách đối với xứ sở này, mỗi giọt nước thật là quý báu. Nên đi ra ngoài sau một ngày ở trong phòng. Một trận mưa lớn đã biến những con đường thành thác lũ và để lại những vũng nước dưới gốc cây ướt sũng. Màn đêm buông xuống; những ngọn đồi còn thấy được trên nền mây; cây cối im lìm bất động, đắm mình trong mộng; chúng như tự quy ẩn, không chịu tương giao nữa. Và bỗng chốc, nhận biết được “bờ bên kia”; nó đã ở đó một lúc, nhưng những cuộc hội kiến, tiếp xúc, không cho phép đủ thời gian nghỉ ngơi để nhận ra, và chỉ khi đi ra ngoài sự hiện diện của nó mới rõ rệt, với sự nhận biết rằng nó đã có mặt trước đây. Dù vậy, nó luôn luôn bất ngờ, chợt đến, hằn dấu một cường lực là cốt tủy của chơn mỹ. Và, dọc theo đường đi, sự có mặt của nó vẫn còn, không phải như là một thực thể bên ngoài hay một kinh nghiệm, một đối tượng để quan sát mà ta nhớ lại. Đó là những đường đi nẻo về của tư tưởng, nhưng tư tưởng đã dừng bặt và không còn có việc phải kinh nghiệm. Mọi kinh nghiệm thuộc về cơ chế của tư tưởng, và tư tưởng thì biến hoại và suy thoái, cũng như mọi tiến trình máy móc khác. “Bờ bên kia” mỗi lần đến là hoàn toàn mới, và cái mới không có liên hệ gì với cái đã biết, cái đã qua. Và chơn mỹ đang có mặt, vượt khỏi mọi tư tưởng, mọi cảm thức. 

Chim cú không gáy trong thung lũng yên lặng; trời còn quá sớm; mặt trời sẽ mọc muộn hơn trên đồi. Trời có mây, không sao; nếu còn sáng, Orion sẽ ở phía bên này, đối diện với hướng Tây, nhưng tất cả chỉ là đen tối, lặng lẽ. Thói quen và thiền định không bao giờ có thể đi chung đôi; thiền định không thể nào trở thành thói quen, không bao giờ có thể tuân theo khuôn mẫu do tư tưởng thiết lập. Thiền định không phải là tư tưởng mắc kẹt trong cạm bẫy của chính nó, trong cái nhìn và những đuổi bắt vô ích của nó; nó tự hủy diệt nó. Tư tưởng khi bẻ gãy những mối liên hệ của nó trước sự vô nghĩa của chính nó là sự bùng nổ của thiền định. Thiền định có chuyển động riêng, vì không phương hướng nên không có nguyên nhân. Và trong căn phòng này, trong sự tĩnh lặng đặc biệt trùm khắp, khi những đám mây thấp lướt trên ngọn cây, thiền định là một chuyển động ngay trong lòng của trí óc đang rỗng rang, tĩnh lặng. Đó là một chuyển động bao trùm toàn thể tâm, trong cái không, ngoài vòng thời gian. Tư tưởng là chất liệu chứa đựng trong biên cương của thời gian; tư tưởng không bao giờ tự do, không bao giờ mới mẻ; mỗi kinh nghiệm chỉ củng cố thêm biên cương này, do đó đưa đến đau khổ. Kinh nghiệm không bao giờ khai phóng tư tưởng; nó làm cho tư tưởng khôn khéo thêm, nhưng sành sỏi không chấm dứt được đau khổ. Tư tưởng quá khôn ngoan và trữ đầy kinh nghiệm, dù vậy vẫn không bao giờ chấm dứt đau khổ; tư tưởng có thể trốn chạy nhưng không bao giờ chấm dứt được đau khổ. Chấm dứt tư tưởng tức chấm dứt đau khổ. Không ai có thể chấm dứt tư tưởng, ngay cả thánh thần, lý tưởng, đức tin và giáo điều. Mỗi tư tưởng, dù thánh thiện hay đê tiện, đều khuôn đúc phản ứng đối với thách thức của sự sống không bờ bến, và phản ứng này của thời gian đưa đến đau khổ. Vì máy móc, nên tư tưởng không bao giờ có thể tự do; chỉ trong tự do mới không còn đau khổ. Chấm dứt tư tưởng tức là chấm dứt đau khổ.

Ngày 4.

Trời đe dọa mưa, nhưng không mưa; những ngọn đồi màu xanh nặng trĩu mây đang thay hình đổi dạng tận xa; chúng di chuyển từ mũi này đến mũi khác, nhưng trong đó có một cụm mây trắng pha màu xám sẫm, kéo dài ra trên đỉnh núi, từ Đông sang Tây đến tận chân trời; như thể nó phun ra từ đó, trên sườn đồi, và trôi lăn về phía Tây lấp loáng ánh nắng chiều; mây màu trắng pha xám, nhưng sâu bên trong chứa một màu tía nhợt nhạt; giống như kéo theo nó những ngọn đồi nó đã che phủ. Hoàng hôn, trong vùng chiếu sáng mặt trời len vào đám mây dày đặc, những ngọn đồi xám vì bóng mây, cây cối nặng nề vì im hơi. Ven đường một cây đa to; lâu năm, thật đẹp, khổng lồ, đầy sức sống, lãnh đạm và đầy vẻ kiêu kỳ, chiều nay nó là vua trên đồi, trên đất và trên sông; những vì sao phía sau nó như nhỏ bé hẳn. Một cặp nông dân đi bộ dọc theo đường, người chồng bước trước. Họ giống như là một, có vẻ giàu có hơn những cặp khác gặp trên đường. Họ qua mặt chúng tôi, chúng tôi không quen người vợ, và ánh mắt người chồng nhìn về xa, hướng ngôi làng. Chúng tôi bắt kịp họ; người vợ nhỏ thó, mắt không nhìn quá mặt đất; cô ta không sạch sẽ lắm, chiếc “sari” (váy) màu lục bẩn thỉu và chiếc áo ngắn màu hồng cam lấm tấm mồ hôi. Cô ta đi chân trần, một bông hoa cắm trên mái tóc bôi dầu. Gương mặt cô ta u hoài và cả người man mác một nỗi buồn sâu nặng. Nhưng ta thấy được trong dáng đi một sự kiên định nào đó, một niềm vui không lây nhiễm chút nào đến nỗi buồn; mỗi thứ duy trì sự hiện diện độc lập thiết yếu của mình, và không liên quan gì với nhau. Nhưng nỗi buồn sâu nặng này tỏa ra lập tức, vô phương cứu chữa, không tiêu tan nổi, một nỗi buồn không tránh được cũng không xoa dịu được, không có gì làm thay đổi được, nỗi buồn ở đó, còn đó. Người đàn bà đang đi trên đường cách chúng tôi vài bước và không có gì chạm đến cô ta được. Chúng tôi đã đi cạnh nhau một lúc, rồi cô ta tách ra để băng qua lòng sông đầy cát đỏ, tiến đến ngôi làng, người chồng ở phía trước cô ta không bao giờ quay lại và cô ta đi theo. Ngay trước khi cô ta rẽ đi, một điều lạ lùng xảy ra: khoảng cách vài thước đường giữa chúng tôi biến mất và theo đó hai thực thể cũng không còn, chỉ còn có người đàn bà này đang bước đi trong nỗi buồn khôn nguôi. Không phải là một sự đồng hóa, cũng chẳng phải một mối thiện cảm dâng trào thương mến đối với cô ta; tuy đang có đó, những yếu tố này không phải là nguyên nhân của hiện tượng này. Sự đồng hóa với một người khác, dù sâu xa cách mấy, vẫn còn giữ ngăn cách, phân hai; hai thực thể vẫn tồn tại, cái này đồng hóa với cái kia, bởi một tiến trình hữu thức hay vô thức của tình thương hay lòng thù hận; tiến trình này chứa chấp một mưu toan nào đó, vi tế hoặc lộ liễu. Nhưng ở đây, không phải thứ nào hết. Cô ta là con người duy nhất trên con đường này. Cô ta ở đó còn người kia thì không. Đây không phải là ảo ảnh, ảo tưởng, nhưng đơn thuần là một sự kiện mà không một lý luận khôn ngoan nào, không một giải thích khôn khéo nào có thể làm sai lạc đi. Ngay cả khi người đàn bà này đã rẽ đi, người kia cũng không còn tiếp tục đi trên đường. Một thời gian trôi qua trước khi người kia trở về, đi dọc theo đám đá đập nhỏ dành để sửa đường. 

Dọc theo con đường này, vượt qua những ngọn đồi phía Nam, “bờ bên kia” hiện đến, với một cường lực, một sức mạnh đến đỗi thân thể không thể đứng nổi và tiếp tục đi dạo thật là khó khăn. Như thể có cơn giông dữ dội, nhưng không có gió, không tiếng động và với một cường lực làm đảo lộn hết. Kỳ lạ thay, mỗi lần nó đến, luôn luôn có cái mới mẻ, không bao giờ như cũ, luôn luôn bất chợt. “Bờ bên kia” không phải là một cái gì lạ lùng, một năng lực gì huyền diệu, nhưng nó có cái huyền diệu do không tùy thuộc vào thời gian lẫn tư tưởng. Một tâm thức tù hãm trong thời gian và tư tưởng không thể nào nắm bắt được nó. Không có việc tìm hiểu nó, cũng vậy tình yêu không thể phân tích hay tìm hiểu, nhưng không có cái bao la vô tận đó, sức mạnh đó, năng lực đó, đời sống và mọi sự hiện hữu, dù ở trình độ nào cũng vậy, sẽ trở nên vô nghĩa và gây ra phiền não. “Bờ bên kia” có tính tuyệt đối, nhưng không phải cứu cánh; nó là năng lực tuyệt đối; nó tự có, không nguyên nhân; nó không phải là năng lực tối thượng, vì nó là tất cả năng lực. Do đó mọi hình thức năng lực và hoạt động phải chấm dứt mới được. Nhưng trong nó tàng chứa mọi hoạt động. Hãy thương yêu và hành động tùy ý. Phải cho chết đi và hủy diệt toàn bộ mới được; không phải là cách mạng những sự việc bên ngoài, nhưng mà là hủy diệt toàn bộ cái đã biết, trong đó bắt nguồn mọi sự sống. Phải trống không tất cả, và chỉ lúc đó “bờ bên kia” mới xuất hiện, tức cái phi thời gian. Nhưng cái không này không thể được đào luyện; nó không phải là quả từ một nhân có thể trao đổi mua bán; cũng không phải là kết quả của thời gian hay của một tiến trình chuyển hóa; thời gian thì chỉ có thể đưa đến thời gian. Đoạn trừ thời gian không phải là một tiến trình; mọi phương pháp, mọi phương thức đều kéo dài thời gian. Thời gian dừng bặt cũng là sự dừng bặt của mọi tư tưởng, của mọi cảm thức.

Ngày 5.

Chơn mỹ không bao giờ có tính cá nhân. Những ngọn đồi màu xanh sẫm mang ánh sáng ban chiều. Trời đã mưa và có những khoảng không màu xanh hiện ra; màu xanh sáng rực, có những cụm mây trắng bao quanh; đó là màu xanh của đôi mắt lấp lánh những giọt lệ bị lãng quên, màu xanh của tuổi trẻ thơ và an nhiên chơn chất. Và màu xanh này chuyển sang màu “Nil” lục nhạt của những chiếc lá đầu xuân, và phía bên kia in hình đám mây rực lửa đang chuẩn bị băng ngang ngọn đồi. Trên đồi, mây dày đặc nặng trĩu nước mưa, đen sẫm, nặng nề, bất biến; chúng ùn đống lại phía Tây trước mặt ngọn đồi, và mặt trời giống như bị nhốt trong đó. Mặt đất ướt nhão ra, màu đỏ và trần trụi, và mỗi cội cây, mỗi lùm bụi đều ngập nước; lá non mới tinh đã có ở đó; lá xoài dài, mướt, màu đỏ hoe và cây me rộ đầy lá nhỏ màu vàng chói, trong khi những chồi xanh tươi mới lộ ra trên cây; sau nhiều tháng chờ đợi dưới ánh nắng nung nấu, mưa mang êm dịu đến cho đất; thung lũng mỉm cười. Ngôi làng tan tác vì nghèo khó thật nhơ bẩn, lợm giọng, và rất đông trẻ con nô đùa vừa hét vừa cười, không có thứ gì quan trọng với chúng trừ trò chơi. Cha mẹ chúng như quá mệt mỏi, nhớn nhác, quên hết mọi sự; chưa bao giờ họ biết được một ngày nghỉ ngơi, sạch sẽ, tiện nghi; đói, làm và tiếp tục đói; họ buồn bã, tuy nụ cười thơ ngây, đôi mắt vẫn biểu lộ vẻ tuyệt vọng khó cải thiện. Mọi vật đều là chơn mỹ, trong cỏ cây, những ngọn đồi và bầu trời đầy sức sống; chim chóc hót vang và đại bàng lượn vòng phía trên, không khí trong lành. Trên đồi, vài con dê gầy guộc, ngốn không biết chán bất cứ cọng gì, và bầy dê con nhảy nhót từ viên đá này đến viên đá khác. Sờ chúng thật êm, lông bóng, sạch và khỏe. Ngồi trên một tảng đá, người chăn dê trẻ tuổi vui ca, thỉnh thoảng cất tiếng gọi chúng. 

Sự tìm kiếm lạc thú, vẻ đẹp mang tính cá nhân là một hoạt động vị ngã dẫn đến tính trơ lì.

Ngày 6.

Một buổi sáng đẹp trời và sáng sủa, mỗi vì sao chớp rất sáng và thung lũng thật yên tĩnh. Đồi sẩm tối, tối hơn bầu trời, và không khí tươi mát còn mùi nước mưa, hương thơm của lá và cây lài đang trổ bông. Tất cả đều say ngủ và từng chiếc lá đều bất động. Vẻ đẹp buổi sáng thật là thần diệu; đó là vẻ đẹp của đất, của trời và người, của chim chóc im ngủ và của suối mát trong lòng sông khô cạn; và vẻ đẹp đó, kỳ lạ thay không phải là cá nhơn. Từ đó toát ra khổ hạnh, không phải khổ hạnh do ta đào luyện, nếu thế chỉ là hoạt động của sợ hãi và phủ nhận, nhưng ở đây là khổ hạnh của cái tròn đầy, rất ư toàn diện đến đỗi không suy thoái. Và ở đó, trên mái hiên khi Orion còn lấp lánh phía Tây, sức mạnh của chơn mỹ quét sạch rào cản của thời gian. Và trong thiền định, vượt khỏi giới hạn của thời gian, trước bầu trời lấp lánh sao và mặt đất tĩnh lặng, chơn mỹ không phải là đuổi bắt riêng tư những lạc thú, tập hợp những đồ vật, cái đã biết, hay những hình tượng mơ hồ, những ảo giác của trí óc, của tư tưởng, của cảm thức. Chơn mỹ không liên hệ gì với tư tưởng, với cảm thức, cũng chẳng can dự gì với cảm giác thích thú từ một buổi hòa nhạc, một bức tranh hay trận bóng đá; lạc thú của buổi hòa nhạc, thi ca, chắc chắn là thanh lịch hơn trận bóng đá, nhưng tất cả đều cùng một loại, cũng giống như buổi lễ trong nhà thờ hay đền chùa. Đây là chơn mỹ vượt khỏi thời gian, khỏi phiền não và những lạc thú của tư duy. Tư tưởng và cảm thức làm tan biến năng lực, do đó chơn mỹ không bao giờ được nhận ra. Cần có năng lực và tính mãnh liệt của nó để nhận ra chơn mỹ, chơn mỹ ở trên cái nhìn. Nếu có một người để nhìn và để thấy, thì không có chơn mỹ. 

Ở đây, trong hương thơm từ mái hiên, trong bình minh sắp đến và cây cối im lìm, bản thể chính là chơn mỹ. Nhưng bản thể không thể là kinh nghiệm; mọi kinh nghiệm phải được chấm dứt, vì kinh nghiệm chỉ củng cố thêm cái đã biết. Cái đã biết không bao giờ là bản thể. Thiền định không bao giờ chạy theo kinh nghiệm; thiền định không những là chấm dứt kinh nghiệm, dứt bỏ phản ứng đối với thách thức, dù lớn hay nhỏ, mà cũng còn là mở ngõ vào bản thể, mở ngõ vào lò đốt để cho ngọn lửa thiêu hủy tất cả, không để lại tro tàn; không còn lại một chút gì. Chúng ta là cái còn lại, là những người chấp nhận hằng ngàn ngày đã qua, mắt xích của một sợi dây dài vô tận lập thành từ kỷ niệm, lựa chọn phân biệt, tuyệt vọng. Đại ngã và tiểu ngã là nền tảng của hiện hữu, hiện hữu là tư tưởng, tư tưởng là hiện hữu, là đau khổ không ngừng. Trong ngọn lửa thiền định, tư tưởng chấm dứt, và tiếp theo cảm thức cũng chấm dứt, vì không một cái nào là tình yêu. Không có tình yêu thì không có bản thể; không có tình yêu mọi sự đều là tro tàn trên đó chúng ta sống. Chính từ cái không sinh ra tình yêu. 

Ngày 7.

Chim cú kêu gọi nhau sáng nay thật sớm. Người ta nghe chúng gáy từ nhiều nơi trong thung lũng, chỗ ở phía Tây, chỗ ở phía Bắc. Tiếng gáy của chúng rất rõ, vang đi thật xa trong không khí im lặng bất động. Ngay từ đầu, chúng cách nhau khá xa và từ từ xích lại gần nhau, tiếng gáy khàn hẳn, rất trầm, không vang xa, nhưng ngắn và nhấn mạnh. Chúng gọi nhau dồn dập hơn và xích lại với nhau; có lẽ đó là những con chim lớn ban đêm khó phân biệt được, dù khi chúng đậu trên cây thật gần. Âm thanh tiếng gáy biến đổi; chúng thông tin với nhau trên một âm điệu rất trầm đến đỗi khó nghe. Chúng đậu thật lâu, mãi khi bình minh đến. Và dần dần, nhiều tiếng động vang lên, tiếng một con chó sủa, một người nào đó kêu gọi, pháo nổ - từ hai ngày nay có một cuộc lễ - cánh cửa mở ra và, với ánh sáng, tất cả tiếng động ban ngày bắt đầu. 

Từ bỏ là nền tảng. Tỉnh giác tức là từ bỏ ngày hôm nay không cần biết ngày mai sẽ mang đến thứ gì. Từ bỏ khuôn mẫu xã hội, kinh tế và tôn giáo tức là sống một mình, tức là mẫn tiệp. Không có khả năng từ bỏ hoàn toàn thì đó là con người tầm thường. Không thể từ chối tham vọng và lời mời gọi của tham vọng, tức là thừa nhận tiêu chuẩn của cuộc sống đưa đến xung đột, mê mờ và phiền não. Từ bỏ chính trị và như thế là từ bỏ con người chính trị ở ngay trong chúng ta, từ bỏ phản ứng với cái tức thì, đời sống thiển cận, tức là thoát khỏi sợ hãi. Từ bỏ hoàn toàn là từ bỏ cái có tích cực, nhu cầu về mô phỏng, về xu thời. Nhưng sự từ bỏ này cũng chính là tích cực vì không phải là phản ứng. Từ bỏ quy tắc về chơn mỹ, dù đã qua hay hiện tại, là khám phá chơn mỹ bên trên tư tưởng và cảm thức; nhưng cần phải có năng lực để khám phá ra. Năng lực này hiện đến khi không còn xung đột, đối kháng, và khi hành động không còn cục bộ.

Ngày 8.

Khiêm cung là bản chất của mọi đức hạnh. Khiêm cung không phải là tìm kiếm, đức hạnh cũng vậy. Nền luân lý mà mọi xã hội đều kính trọng chỉ là một sự thích ứng vào khuôn phép do môi trường xã hội, kinh tế và tôn giáo tạo nên; nhưng vì xuất phát từ nỗi lo âu thích ứng, nền luân lý như thế không phải là đức hạnh. Xu thời và tìm kiếm sự an ổn mô phỏng mà ta gọi tên luân lý là phủ nhận đức hạnh. Kỷ luật không bao giờ thường trực, duy trì kỷ luật phải đều đặn hằng ngày như việc giữ sạch sẽ một căn phòng. Kỷ luật phải được duy trì từng sát-na, mỗi ngày. Kỷ luật không phải là thừa nhận riêng tư đối với phản ứng phát sinh từ thương hay ghét, từ lạc hay khổ. Kỷ luật không phải là phương tiện trốn thoát phiền não; hiểu biết và chấm dứt phiền não là đức hạnh, việc này sẽ đưa đến kỷ luật. Kỷ luật không phải là cứu cánh; nếu kỷ luật là cứu cánh sẽ đưa lòng kính phục vào ngõ cụt, tức là suy thoái và hư hỏng. Học hiểu là bản chất của tính khiêm cung, học hiểu nơi mọi sự và nơi mỗi người. Học hiểu không bao gồm tôn ti thứ bậc nào. Quyền lực sẽ loại trừ sự học hiểu và người học trò, một môn sinh sẽ không bao giờ học hiểu được. 

Chỉ có một cụm mây hướng Đông, phía sau đồi, bị mặt trời chiều thiêu đốt; không một ảo tưởng nào có thể tạo ra được cụm mây này. Đó là tinh hoa của mọi đường nét, không một kiến trúc sư nào có thể dự kiến được một cơ cấu như vậy. Cơ cấu này là kết quả của biết bao gió, mặt trời và đêm, áp lực và căng thẳng. Những cụm mây khác sẫm màu, không ánh sáng, chẳng có chiều cao lẫn chiều sâu, nhưng cụm mây này làm nổ tung không gian. Trước mặt nó, ngọn đồi như mất hết sức sống, sức mạnh; ngọn đồi đã mất đi vẻ uy nghi quen thuộc, sự tinh khiết trong đường nét. Cụm mây đã hấp thu sự cao cả, sự tĩnh lặng của đồi. Bên dưới cái vĩ đại cao cả đó thung lũng xanh nằm yên, được nước mưa rửa sạch; càng đẹp hơn sau cơn mưa, thung lũng cổ xưa này trở nên sáng chói một cạch lạ lùng, một màu xanh với tất cả những sắc màu, và mặt đất đỏ hơn nữa. Trong không khí trong suốt, những tảng đá to trên đồi nhẵn thín màu đỏ, xanh, xám, tím nhạt. 

Có nhiều người ngồi trong gian phòng, số ngồi dưới đất, số ngồi trên ghế; một sự lặng lẽ tạo thành từ thích thú và hạnh phúc bao trùm. Một người chơi một loại đàn tám dây. Anh ta đàn mắt nhắm, sung sướng cùng với đám thính giả nhỏ bé. Đây là âm thanh tinh thuần, trên đó ta cất cánh bay rất xa, rất sâu, mỗi một âm thanh đưa ta đến một ngưỡng cửa sâu hơn. Âm điệu cây đàn mang ta vào một chuyến du hành vô tận ngay cảm xúc đầu tiên, cho đến khi tay của nhạc sĩ rời khỏi phím đàn, chỉ có âm thanh là quan trọng chớ không phải cây đàn, nhạc sĩ hay thính chúng. Âm thanh này trung hòa hết mọi âm thanh khác, luôn cả tiếng pháo nổ do tụi trẻ đốt ở bên ngoài. Ta nghe tiếng pháo vỡ tung, nổ tung, nhưng pháo là thành phần của âm thanh và âm thanh là tất cả, tiếng hát ve sầu, tiếng cười lũ bé trai, tiếng gọi đứa bé gái và âm thanh của im lặng. Nhạc sĩ chắc là đã đàn hơn nửa giờ và, suốt thời gian đó, chuyến du hành vẫn tiếp tục càng xa càng sâu; không phải là du hành thực hiện trong tưởng tượng, trên đôi cánh của thời gian hay trong cơn cuồng nhiệt của cảm xúc. Những chuyến đi như thế đều ngắn, có một ý nghĩa nào đó hay một lạc thú nào đó; chuyến du hành này lại không mang một ý nghĩa gì, không có lạc thú. Chỉ có âm thanh và không gì khác, không tư tưởng, không cảm thức. Âm thanh đó dẫn chúng ta xuyên qua và vượt ra ngoài ranh giới của thời gian, và đẩy chúng ta tiến tới một cách lặng lẽ, trong cái không bao la vô tận, không trở lại. Cái gì trở lại luôn luôn là ký ức, là cái đã qua, nhưng ở đây, không có ký ức, không có kinh nghiệm. Thực tại không có hình bóng, không có ký ức.

Ngày 9.

Bầu trời không một gợn mây khi mặt trời xuống nghiêng phía sau đồi; trong không khí im lìm, không một chiếc lá nào động đậy. Mọi vật như được chứa đựng trong tia chớp của bầu trời trong ngần. Ven đường, ánh sáng trời chiều phản chiếu trong vũng nước nhỏ đầy năng lực xuất thần, và cuộc sống toàn vẹn yên nghỉ trong cánh hoa dại bên đường. Có một ngọn đồi trông giống như ngôi đền cổ xưa, không tuổi tác; màu đỏ tía sẫm hơn màu tím, mạnh bạo và vô tình, sinh động do ánh sáng nội tại, không hình bóng; mọi tảng đá, mọi bụi cây trên đồi đều hớn hở vui mừng. Một chiếc xe chở rơm có hai con bò kéo và một người lái xuất hiện trên đường, gây nhiều tiếng ồn; có đứa bé trai ngồi trên cao. Bóng của họ tách ra rõ nét trên nền trời, ta thấy rõ nhất hình thể đứa bé; mũi và trán của nó sắc cạnh và dịu dàng; khuôn mặt chưa hấp thụ nền giáo dục và chắc là sẽ không bao giờ hấp thụ; đó là một khuôn mặt sơ nguyên chưa mang dấu vết của lao động và trách nhiệm; khuôn mặt tươi cười này phản chiếu bầu trời trong sáng. Thiền định thật tự nhiên suốt buổi đi dạo dọc theo con đường; một sự nhiệt thành và trong suốt ngự trị đã cho cơ hội đó. Tư duy là phí phạm năng lực, cảm thức cũng vậy. Tư tưởng và cảm thức mời gọi sự phân tán và tập trung, có khuynh hướng thu hút con người vào trong chính mình bằng một thái độ tự vệ, giống như đứa trẻ bị cuốn hút trong trò chơi của nó. Trò chơi thì hấp dẫn và đứa bé bị mất hút trong đó, nó sẽ chống cự lại khi bị lôi kéo ra. Đối với người lớn cũng giống như vậy, trò chơi của họ là vô số những cuộc đuổi bắt. Ở đây, trên con đường này, tư tưởng và cảm thức của nó không có khả năng thu hút, vì không có năng lực riêng nên tư tưởng đã dừng lại. Trí óc yên tĩnh như mặt nước khi cơn gió ngừng thổi. Đó là bất động mở mang cho sáng tạo. Và ở đây trên ngọn đồi này, sát bên, một con chim cú đang gáy nhẹ, để rồi đột ngột ngừng lại khi một trong các con đại bàng to lớn màu nâu bay ngang trời trên thung lũng. Chính đức tính của sự im lìm bất động mới là quan trọng; im lìm bất động do tạo tác là tù hãm; im lìm bất động được mua chuộc là tài sản thực sự không giá trị; im lìm bất động đúc kết từ kiểm soát, kỷ luật, đè nén là tiếng kêu của tuyệt vọng. Không một âm thanh trong thung lũng, trong tâm cũng không, nhưng tâm vượt ra khỏi thung lũng và thời gian. Vì chưa bao giờ rời khỏi nên tâm không trở lại. Im lặng là chiều sâu của cái không. 

Sau một ngã rẽ, con đường dốc xuống từ từ, băng qua vài chiếc cầu trên những lòng sông khô cạn và đến sườn núi bên kia thung lũng. Chiếc xe bò đổ xuống theo đường này; vài người dân làng leo lên xe, nhút nhát và câm nín; bầy trẻ nô đùa trên lòng sông, một con chim cất tiếng nhiều hồi. Và khi con đường quanh về phía đông, bờ bên kia xuất hiện. Nó hiện đến với từng đợt sóng lớn mạnh của phép lành, tuyệt mỹ, bao la vô tận. Hình như là tầng trời mở ra, và từ cái bao la vô tận đó hiện đến một cái gì không tên tuổi; ta chợt hiểu ra, và chỉ lúc đó, nó ở suốt cả ngày, nhưng chỉ có một mình, những thứ khác hơi lui xa một chút, ta mới nhận ra sự kiện và sự biểu lộ lạ kỳ của nó; không phải là một biến cố đơn lẻ mà là đỉnh cao của một sự kiện liên tục. Ánh sáng ở đó, không phải là ánh mặt trời lặn, cũng không phải một luồng sáng nhân tạo mạnh từ đó chiếu ra hình bóng; có một thứ ánh sáng không hình bóng, đó là ánh sáng.

Ngày 10.

Một con chim cu cất giọng trầm gáy lên trên đồi; giọng trầm của nó thâm nhập căn phòng và kích thích lỗ tai. Nếu không có tiếng gáy này thì tất cả đều im lặng; không cả tiếng uềnh oang của ếch nhái, luôn tiếng rì rào của một con vật. Im lặng càng tăng giữa nhiều tiếng gáy đến từ các ngọn đồi phía nam; tiếng gáy chan hòa thung lũng, đồi và không khí phập phồng trong âm thanh này. Đã lâu không có tiếng đáp, và tiếng đáp đến từ rất xa, tận trong lòng thung lũng, về phía tây; những con chim này biết giữ cho cả hai bên: im lặng và vẻ đẹp của trời đêm. Bình minh gần đến, nhưng bóng tối vẫn còn ngự trị; ta có thể phân biệt đường viền ngọn đồi luôn cả cây đa. Sao Orion và chùm Thất Tinh nằm nghiêng trên nền trời sáng, không mây; không khí mát mẻ sau trận mưa rào ngắn; có hương thơm của cây cổ thụ, của trời mưa, bông hoa và của những ngọn đồi cổ xưa. Một buổi mai thực sự tuyệt diệu. Cái gì có bên ngoài đều hiện hành bên trong; thiền định thực sự là hài hòa không phân hai giữa hai chuyển động này. Có nhiều hệ thống thiền định chỉ giam hãm tâm thức trong một khuôn mẫu, khuôn mẫu này hiến cho những lối đào thoát tuyệt vời, những cảm xúc; chỉ có ai ấu trĩ mới dự vào trò chơi như thế và họ thấy hài lòng. Không tự tri, mọi thiền định đều dẫn đến ảo tưởng và những kiểu tự mình dối gạt mình khác nhau, dù trong sự kiện có thực hay trong tưởng tượng. Thiền định là một chuyển động có năng lực dũng mãnh, xung đột không thể nào biết đến năng lực này. Xung đột làm hư hỏng và phá tan năng lực như các lý tưởng và thuyết xu thời đã làm. Tư tưởng là tình thức và đi với nó cũng là tình thức, nhưng trí óc vẫn còn tỉnh giác và hoàn toàn mẫn tiệp. Mọi chuyển động, mọi hoạt động xuất phát từ một động cơ đều là phi hoạt động. Chính cái phi hoạt động này làm hư hao năng lượng. Tình yêu dẫn xuất từ một động cơ không còn là tình yêu nữa; có một tình yêu không động cơ. Thân thể tuyệt đối bất động và trí óc hoàn toàn tĩnh lặng, cả hai thực sự nhận biết tất cả, nhưng không tư tưởng, cũng không tạo tác. Đây không phải là một kiểu ngủ im do thôi miên, một trạng thái gây ngủ, vì ta không chờ đợi một thứ gì, không quan sát cũng không cảm giác, mọi thứ đều là tầm phào. Đây là một sự kiện thực tế, và một sự kiện thực tế không bao hàm lạc, khổ. Và chuyển động này vượt khỏi ký ức, khỏi cái đã biết. 

Bình minh ló dạng và cùng theo là bờ bên kia, chủ yếu thuộc về thiền định. Một con chó sủa lên, ngày đã bắt đầu.

Ngày 11.

Chỉ có những sự kiện thực tế, không có cái lớn hơn hoặc nhỏ hơn. Đề cập đến sự kiện, cái đang là, với phán đoán hay ý kiến, thì không thể thấu triệt được; chính những ý kiến, phán đoán lúc đó biến thành sự kiện, thay thế điều mà chúng ta tìm hiểu. Chính trong khi tìm hiểu, quan sát sự kiện, cái đang là, sự kiện mới dạy dỗ chúng ta và lời dạy của nó không bao giờ máy móc; cần phải lắng nghe, cần phải quan sát thật bén nhọn để theo kịp lời dạy của nó; sự chú tâm này sẽ không còn nữa khi lắng nghe có động cơ. Động cơ làm tan biến năng lực, làm biến thể năng lực; hoạt động dẫn xuất từ một động cơ là phi hoạt động, chỉ đưa đến hỗn loạn và phiền não. Phiền não dựng lập bởi tư tưởng và tư tưởng tự nuôi dưỡng chính mình, đã sản sinh cái tôi và cái ngã. Giống như một chiếc máy đã có sẵn năng lực, cái tôi và cái ngã cũng vậy, và hiện hữu nhờ tư tưởng và cảm thức. Sự kiện thực tế phá hủy cơ chế này. 

Đức tin thật là vô ích, tất cả đều giống như lý tưởng. Cả hai làm tan biến năng lực cần thiết để theo kịp sự hiển bày của sự kiện, của cái đang là. Đức tin cũng như lý tưởng đều là lối thoát xa rời sự kiện thực tế và, trong sự đào thoát, phiền não không hết được. Chấm dứt phiền não là hiểu biết sự kiện từng sát-na. Không một hệ thống nào, không một phương pháp nào có thể cho ta hiểu biết, ngoại trừ sáng suốt không phân biệt lựa chọn trước sự kiện. Mọi hệ thống thiền định là đào thoát trước sự kiện của cái ta đang là; thật là quan trọng biết chừng nào sự hiểu biết chính mình, nhìn thấy sự chuyển biến thường trực những sự kiện trong chính mình hơn là trầm tư để tìm gặp Thượng Đế, để có những ảo giác, những cảm giác và những hình thức khác của sự tìm quên, giải trí. 

Một con quạ kêu đinh tai nhức óc; ta không thấy được nó đậu trên cành cây rậm rạp. Những con quạ khác bay chung quanh, nhưng con quạ trên vẫn tiếp tục kêu chát chúa, nhức buốt; có lẽ nó đang giận hay than phiền về việc gì đó. Tàng lá chung quanh nó lay động và ngay cả vài giọt nước mưa cũng không làm nó ngừng kêu, vì nó đã bị lôi cuốn vào việc đang làm phiền nó. Nó ló mình ra khỏi cành cây và, sau khi giũ lông cánh, cất cánh bay lên để tiếp tục than phiền nhức tai; cuối cùng nó thấm mệt và hết kêu. Rồi một con quạ khác, bay đến chỗ đó, bị chinh phục, khá thân thiện và khêu gợi. Có nhiều con chim khác trong cây này, con chim cu gốc Ấn Độ, màu vàng chói cánh đen, một con chim to màu xám bạc giống như nhiều con khác đang mổ dưới gốc cây. Một trong những con sóc nhỏ lưng sọc rằn xuất hiện và cũng leo lên cây. Chúng đều ở đó, trong cây, nhưng tiếng kêu con quạ lớn hơn hết và dai dẳng hơn hết. Mặt trời ló dạng khỏi đám mây và cội cây có bóng mát thật dày; văng vẳng tiếng sáo qua chỗ dốc nhỏ, nghe xúc động một cách lạ lùng.  

Ngày 12.

Ngày nào bầu trời cũng nặng trịch những đám mây đen sẫm, nhưng mây không kéo mưa tới; tuy mưa thật là cần thiết, nếu trời không mưa xối xả trong nhiều giờ thì người ta sẽ khổ sở, đồng ruộng sẽ không cung cấp một thứ gì, và tiếng nói sẽ không còn vang trong lòng sông; trời nắng làm chai cứng đất đai, màu xanh của vài tuần nay đã biến mất, mặt đất trơ trụi. Đây là một tai họa làm dân làng chung quanh khổ cực; họ đã quen với nỗi khổ, thiếu thốn, với thức ăn dè sẻn. Mưa là phép lành và, nếu không mưa bây giờ, thì không còn gì cho sáu tháng tới đây trên mảnh đất nghèo, cát, đá. Cần phải dùng đến giếng để tưới ruộng, và ruộng cũng gặp nguy cơ hạn hán. Sự sống thật vất vả và gay go, cuộc đời mang lại quá ít niềm vui. Những ngọn đồi thật là lãnh đạm; chúng đã thấy nỗi khổ xảy ra từ thế hệ này đến thế hệ khác, chúng là chứng nhân của mọi phương diện nghèo đói, của sanh và tử, chúng thuộc những ngọn đồi xưa nhất trái đất và biết rằng mình không thể làm gì hơn được. Con người đốn rừng, chặt cây để làm củi, dê hươu phá hại bụi rậm, con người cần phải sống chứ. Những ngọn đồi thật thờ ơ, đau khổ không bao giờ chạm đến chúng mà cách xa, tuy gần mà xa. Sáng nay có vài quả đồi màu xanh, những quả đồi khác màu tím và xám với nền cỏ xanh. Chúng không thể giúp đỡ một chút nào hết dù có sức mạnh và sắc đẹp, và sự an bình này tỏa ra quá tự nhiên, dễ dàng, không mãnh lực nội tại thâm sâu, quá toàn vẹn, nhưng không cội rễ. Nhưng nếu trời không mưa, sẽ không có an bình cũng như thịnh vượng. Thật là bi thương khi phải lệ thuộc vào mưa vì hạnh phúc của mình, sông ngòi và kinh đào để dẫn thủy vì xa, và nhà nước còn mắc bận bịu về chính trị, dự án. Ta cần đến nước, nước sống ngời sáng, reo nhảy, không biết mỏi, chớ không cần đến ngôn từ về hy vọng. 

Trời mưa bụi và ngay trên đồi có cầu vòng, thật tinh tế, phi thực; vòng tròn của nó chạm đến cây và lan rộng tận những ngọn đồi phía bắc. Cầu vòng không được bao lâu vì mưa bụi thật ngắn ngủi, tuy vậy cũng nhỏ xuống hằng ngàn giọt nước trên những chiếc lá răng cưa của cội cây sát bên. Ba con quạ trên cây đang giũ lông, quạt cánh màu đen xám để cho nước mưa thấm vào tận lông tơ trong thân; chúng gọi nhau và tiếng gáy của chúng thật mừng vui; sau khi tận dụng hết những giọt nước mưa chúng chuyền qua cành khác. Đôi mắt chớp sáng nhìn thẳng vào bạn và mỏ rất đen thật bén; một chút nước chảy trong lòng sông kế bên, tạo thành một vũng nước đủ để bầy chim thường bay đến tắm. Nhưng ba con quạ này có ý ngông là sáng sớm tắm rửa trong cành lá tươi mát đẫm ướt. Đây là một cội cây có tầm rộng, dáng của cây thật đẹp và có nhiều chim trú ẩn ở đó ngay giữa ban ngày. Lúc nào cũng có chim chóc trong cành lá la hót, hoặc ríu rít, hoặc cãi nhau chí chóe. Cây cối thật đẹp trong sự sống cũng như trong cái chết; chúng cứ sống và không bao giờ nghĩ đến cái chết; chúng đổi mới không ngừng. 

Thật là dễ thoái hóa, bằng nhiều kiểu, để mặc thân hư hỏng, trở thành mềm nhũn và bị thịt; để cho tình cảm héo úa và tâm u tối trong cái phiến diện, ti tiện, đơn điệu. Tâm khéo léo, khôn lanh thì không có chiều sâu, nó không thể tự đổi mới và tự làm cho khô cằn trong cái cay đắng của chính mình; tâm tự làm giảm cấp bởi sự tập luyện tính bén nhậy mỏng manh, bởi chính tư tưởng của mình. Mỗi tư tưởng đẩy tâm chảy vào khuôn đúc của cái đã biết; mỗi cảm thức, mỗi xúc động, dù tinh tế đến đâu, đều biến thành rỗng tuếch và vô ích, và thân, được nuôi dưỡng với tư tưởng và cảm thức, mất tính mẫn tiệp. Không phải năng lực vật lý, tuy là cần thiết, có thể gây tổn thương trong cái phàm tình mệt mỏi; không phải đam mê hay tình cảm tạo ra tính mẫn tiệp cho toàn bộ con người; đam mê và tình cảm làm suy đồi. Chính tư tưởng là yếu tố gây ra suy thoái, vì tư tưởng bắt nguồn từ cái đã biết. Một sự sống đặt nền tảng trên tư tưởng và trên sự tạo tác của tư tưởng sẽ trở nên máy móc; ngay cả khi sự sống vận hành không va chạm, vẫn luôn luôn là hành động máy móc. Hành động phát xuất từ một động cơ làm tiêu tan năng lực và có suy thoái. Mọi động cơ, dù hữu thức hay vô thức, đều bắt nguồn từ cái đã biết. Sống đặt trên cái đã biết thì già cỗi, cho dù được phóng chiếu vào tương lai dưới cái tên bất tri; một sự sống như thế không có đổi mới. Tư tưởng không bao giờ gây ra được tính chơn chất an nhiên và khiêm cung giữ tâm trẻ trung, mẫn tiệp, bất hoại. Giải trừ cái đã biết sẽ chấm dứt tư tưởng; giải trừ cái đã biết là làm cho tư tưởng chết đi từng sát-na. Chính cái chết này chấm dứt sự già cỗi.

Ngày 13.

Một tảng đá lớn tách ra khỏi ngọn đồi phía nam; nó thay đổi màu sắc từng giờ một, đi từ màu đỏ sang màu hồng đậm của đá hoa cương đã mài thật nhẵn bóng, đến màu gạch điếc, màu đất nung khi thì bị rửa nước mưa, khi thì bị nắng đốt cháy, rồi trở thành màu lục xám, như mọc rêu, giống một bông hoa có nhiều màu sắc; đôi khi nó chỉ là một khối đá không sức sống, nó là mọi sự như thế và, sáng hôm nay, khi bình minh nhuộm xám đám mây, tảng đá này rực lửa, một ngọn lửa trong bụi rậm xanh um; đá cũng hay thay đổi như người đồng bóng, nhưng tính tình nó không bao giờ u buồn hay dữ dằn; yên lặng hay sáng chói, khó chịu hay vui vẻ, cởi mở hay dè dặt, nó luôn luôn đầy màu sắc. Nó có thể là một trong những thần linh được tôn kính nhưng nó vẫn là một tảng đá màu sắc và uy nghi. Mỗi một ngọn đồi hình như có một cái gì đặc biệt, không có ngọn đồi nào quá cao, nhưng tất cả đều cứng rắn giữa thời tiết khó chịu, có vẻ như được điêu khắc và thật lộng lẫy. Đồi hài hòa với thung lũng, thung lũng không lớn lắm, xa thành phố và đường xe cộ, đồi khô cằn hay xanh um khi trời mưa; cây cối trong đồng ruộng xanh tươi làm đẹp thung lũng. Vài cội cây, thân và cành lá to rộng, hình dáng thật ngoạn mục; những cây khác còi cọc trong thời gian chờ mưa, nhưng vẫn tăng trưởng từ từ; và cũng có những cây nhiều lá và bóng mát. Cây cối không nhiều lắm, nhưng cây nào còn sống thì thật đẹp. Màu xanh của cây nổi bật trên màu đất đỏ và bụi rậm mọc sát mặt đất. Tất cả đều sống sót suốt những tháng dài không mưa, dưới ánh nắng gay gắt, và cuối cùng khi trời mưa, niềm vui của chúng chuyển động cả thung lũng; mỗi cội cây, mỗi lùm bụi vui mừng vì được sống và lá xanh như trong mơ; rồi những ngọn đồi đồng loạt ca hát và cả đất đai là hào quang sáng ngời sức sống. 

Không một âm thanh trong thung lũng. Ban đêm, không một chiếc lá lay động; bình minh chắc đến trong một giờ nữa. Thiền định không phải là tự thôi miên, không phải lời nói hay tư tưởng, sự lặp lại hay hình bóng; cần phải loại bỏ mọi ý niệm tưởng tượng, bởi vì chúng dẫn đến ảo tưởng. Thiền định là thấu triệt sự kiện thực tế chớ không phải lý thuyết, không phải là tìm kiếm kết luận, hay thừa nhận kết luận, hay khát vọng có được những ảo giác. Mọi việc này cần phải loại bỏ, thiền định là thấu triệt những sự kiện và vượt qua đó. Tự tri là bắt đầu thiền định; nếu khác thế, cái gọi là thiền định chỉ có khơi dậy tính ấu trĩ và ngu xuẩn dưới mọi hình thức. Trời còn sớm, thung lũng còn im ngủ. Thức dậy, thiền định kéo dài như đã diễn tiến đến đây; thân bất động, nhưng không phải là gắng gượng; rỗng không tư tưởng, tuy nhiên trí óc vẫn chú tâm, nhưng không một cảm giác; tư tưởng lẫn cảm thức đều không có. Lúc đó bắt đầu một chuyển động vượt ngoài thời gian. Ngôn từ là thời gian, vạch ra một không gian; ngôn từ tùy thuộc vào quá khứ và tương lai, nhưng không có ngôn từ cho thực tại hiện tiền. Cái gì đã chết có thể cố định trong ngôn từ, nhưng cái gì sinh động thì không thể. Mỗi ngôn cú mà ta dùng để gợi lại cái sinh động tức là phủ nhận nó. Chuyển động này xuyên qua thành vách của trí óc, nhưng trí óc không tiếp chạm một chút nào với chuyển động; trí óc không có khả năng đuổi theo hoặc nhận biết chuyển động này. Chuyển động này không phát sinh từ cái đã biết; trí óc có thể theo dõi cái đã biết, vì nhận diện được, nhưng ở đây không thể có một sự nhận diện nào. Một chuyển động thì hoạt động có phương hướng, nhưng chuyển động này lại không có, và tuy thế không phải là tĩnh. Vì không phương hướng nên nó là bản thể của hành động. Mọi phương hướng đều dựng lên từ ảnh hưởng hay phản ứng. Nhưng một hành động khi không phải là kết quả của phản ứng hay tác động hỗ tương sẽ là năng lực toàn vẹn. Năng lực này, tức tình yêu, có chuyển động riêng biệt của nó. Nhưng dành từ tình yêu, tức cái đã biết, không phải là tình yêu. Tình yêu chỉ là sự kiện thực tế, là giải thoát khỏi cái đã biết. Thiền định là sự bùng nổ của sự kiện. 

Những vấn đề của chúng ta tăng bội lên và đuổi theo nhau; theo đuổi một vấn đề làm hư hỏng và bại hoại tâm. Vấn đề là xung đột, là song đề không được soi sáng; những vấn đề như thế để lại vết thẹo phá hủy tính chơn chất an nhiên. Mỗi một xung đột cần phải được hiểu rõ và như thế sẽ thoát khỏi nó. Chạy theo vấn đề là yếu tố suy thoái; mỗi vấn đề kéo theo một vấn đề khác; một tâm thức mòn mỏi vì vấn đề, dù là vấn đề cá nhân hay tập thể, xã hội hay kinh tế tức đang ở trạng thái suy thoái.

Ngày 14.

Mẫn tiệp và cảm giác là hai việc khác nhau. Cảm giác, xúc động, tình cảm luôn luôn để lại cặn bã, và sự chất chứa cặn bã đó làm đờ đẫn và biến thể, cảm giác lúc nào cũng đối kháng và như thế có tính xung đột; xung đột làm đờ đẫn tâm thức, hư hỏng tri giác. Nhận biết cái đẹp thì không phải bằng ngôn ngữ của cảm giác, lạc hay khổ; cảm giác chỉ biết phân hai thành đẹp và xấu, nhưng sự phân hai không phải là chơn mỹ. Cũng như cảm giác, tình cảm đưa đến xung đột, để tránh xung đột người ta cầu cứu đến kỷ luật, kiểm soát, kềm chế, nhưng điều này chỉ tạo ra đối kháng và như thế gia tăng xung đột, do đó càng đờ đẫn nhiều, càng trơ lì nhiều. Một kỷ luật thánh thiện và đè nén, dù rất được ngưỡng mộ, thực sự chỉ là tính trơ lì thánh thiện, đờ đẫn mãnh liệt. Để làm cho tâm càng ngu muội và ù lì, người ta sáng chế và phổ biến các lý tưởng, kết luận. Mọi hình thức cảm giác, dù thô hay tế, đều đào luyện sự đối kháng và suy vi. Tính mẫn tiệp tức là đã chết đi mọi cặn bã dư tàn của cảm giác; mẫn tiệp triệt để, mãnh liệt, đối với một bông hoa, một con người, một nụ cười, tức là không giữ một dấu vết hình bóng nào trong ký ức, vì mọi bóng hình đều phá hủy tính mẫn tiệp. Tỉnh giác đối với mỗi cảm giác, mỗi tình cảm, mỗi tư tưởng khi chúng khởi lên, từng sát-na và không phân biệt lựa chọn, tức là giải khoát khỏi mọi dấu vết hình bóng, và chúng sẽ không bao giờ thành hình được nữa. Những cảm giác, tình cảm, tư tưởng luôn luôn chia chẻ, vụn vặt và có tính phá hủy. Tính mẫn tiệp dẫn xuất từ toàn thể thân, tâm và trí. 

Kiến thức là máy móc và theo chức năng; kiến thức, khả năng tiếp thu, dùng để sở đắc một giai cấp xã hội, đưa đến xung đột, đối kháng và tham lam. Người nấu bếp cũng như vị nguyên thủ quốc gia tượng trưng cho nhiệm vụ, và khi người này hay người nọ tự kiêu về một địa vị đặc biệt, lúc đó bắt đầu những tranh luận, thói đua đòi và lòng tôn sùng địa vị, chức vụ và quyền lực. Quyền lực thì luôn luôn xấu xa, và chính cái xấu đó làm xã hội suy đồi. Tầm quan trọng về mặt tâm lý của chức vụ đưa đến tôn ti thứ bậc những địa vị. Từ bỏ tôn ti tức là từ bỏ quy chế; có thứ tôn ti của chức vụ, nhưng không có tôn ti của quy chế. Ngôn ngữ không đáng kể, nhưng sự kiện thực tế lại có ý nghĩa lớn lao. Sự kiện không bao giờ đưa đến đau khổ, nhưng ngôn từ bao bọc nó và những lối thoát khỏi nó đều là nguồn gốc của xung đột và của mối đau khổ không tên. 

Một đàn bò gặm cỏ trên đồng xanh; chúng toàn một màu nâu và, khi chúng bước đi, sắc màu trên bộ lông làm ta tưởng như mặt đất rung chuyển. Khá to lớn, uể oải và mệt nhoài vì lũ ruồi, những con bò này được đặc biệt chăm sóc, nuôi kỹ, ngược lại với đàn bò trong làng, nhỏ bé, ốm trơ xương, ít sữa, xông mùi hôi và hình như háu đói. Lúc nào kế bên chúng cũng có một bé trai hay bé gái la mắng, nói hoặc gọi chúng. Khắp nơi đời sống vất vả, với bệnh hoạn và chết chóc. Một bà già đi qua mỗi ngày, tay mang một bình sữa nhỏ hay thức ăn nào đó; bà ta có vẻ nhút nhát và không còn răng, áo quần dơ bẩn và gương mặt phản ảnh nỗi khốn khổ; thỉnh thoảng có một nụ cười, nhưng chỉ là gắng gượng. Bà từ làng bên cạnh đến và luôn luôn đi chân đất; đôi chân nhỏ và cứng một cách lạ lùng, nhưng trong người bà bốc lửa, đó là một bà già khô khan và nóng nảy. Dáng đi của bà nhẹ nhưng không một chút gì dịu dàng. Khắp nơi đều là khốn khổ và có nụ cười gắng gượng. Thần thánh đã bỏ đi, trừ đền đài, và những người quyền thế của trái đất này không bao giờ để ý đến người đàn bà này. Nhưng rồi trời mưa, một trận mưa rào to và dai, và những cụm mây ôm chặt ngọn đồi. Cây cối theo sau mây, đồi cũng đuổi theo mây và con người phó mặc vận mệnh của mình.

Ngày 15.

Bây giờ là bình minh; đồi ẩn trong mây và từng con chim hót vang hoặc cất tiếng kêu, những tiếng kêu chát chúa, một con bò rống và một con chó tru. Đây là một buổi sáng dễ chịu, ánh sáng thật êm dịu và mặt trời ẩn sau đồi và mây. Dưới cây đa già, có một người thổi sáo, một cái trống nhỏ hòa theo. Tiếng sáo lấn át tiếng trống và bài ca của tiếng sáo tràn khắp không gian; tiếng sáo như thấu nhập cả con người với âm điệu dịu dàng và ngọt ngào; ta vẫn nghe tiếng sáo dù có những tiếng động khác; tiếng trống bập bùng lên xuống bên tai trên lượn sóng của tiếng sáo cùng với tiếng quạ kêu không ăn nhịp. Mỗi âm thanh thâm nhập vào chúng ta, chúng ta kháng cự một số và tiếp nhận số khác, tùy theo chúng ta thấy khó chịu hay dễ chịu, và như thế chúng ta bị mất mát một cái gì. Tiếng quạ kêu bay đến với tiếng trống, và tiếng trống được âm điệu vi vu của tiếng sáo đưa lên, do đó âm thanh toàn vẹn có thể thâm nhập tận chiều sâu, vượt qua mọi chống đối, mọi thích thú. Trong mọi thứ này có một vẻ đẹp cao vĩ, không phải là vẻ đẹp mà tư tưởng và cảm thức biết đến. Trên âm thanh này, thiền định hiện đến nổ tung; và trong thiền định này, tiếng sáo, tiếng trống bập bùng, tiếng quạ kêu không ăn nhịp cùng tất cả mọi vật trên mặt đất đều hợp nhất, do đó cho ta chiều sâu và không gian để nổ tung. Nổ tung là hủy diệt, và hủy diệt là đất và sống, cũng như tình yêu. Âm điệu này sẽ nổ tung nếu bạn để nó tự do, nhưng bạn sẽ không làm thế, vì bạn muốn có một đời sống an ổn, vì thế sẽ là một đời sống buồn tẻ; lúc đó bạn cố thử cho vẻ xấu xí với vẻ đẹp ti tiện của đời sống một ý nghĩa và một lý lẽ. Và âm nhạc là một món đồ để hưởng thụ, gây ra nhiều tình cảm, tất cả chẳng khác bóng đá hay vài nghi thức tôn giáo. Tình cảm, cảm xúc là phung phí, rất dễ biến thành thù hận. Nhưng tình yêu không phải là một cảm xúc, một sự vật mà tình cảm có thể tóm bắt được. Lắng nghe một cách tròn đầy, không đề kháng, không một chút tự vệ nào, tức là cho phép lạ bùng nổ rung chuyển cái đã biết; lắng nghe sự bùng nổ này, không động cơ, không xu hướng, là thâm nhập vào nơi mà tư tưởng, thời gian không thể duy trì. 

Thung lũng chỗ hẹp nhất phải rộng cỡ 1500 thước, chính ở đây những ngọn đồi gặp nhau và hướng từ Đông sang Tây; tuy nhiên, một hay hai ngọn đồi trong số đó làm gãy đứt đường thẳng ở phía Tây; nhưng không gian mở ra, từ ngọn đồi này sang ngọn đồi kia, trên hành trình của mặt trời. Với chiều cao và độ chính xác, những ngọn đồi này hòa lẫn vào chân trời; một tính chất lạ lùng là màu xanh pha tím xuất hiện với tuổi đời và mặt trời chói chang. Chiều xuống, đồi chiếm lĩnh ánh nắng hoàng hôn và trở thành hoàn toàn như trong mơ, lộng lẫy sắc màu; và phương Đông mặt trời nhuộm kín bầu trời, như thể ẩn mình trong đó. Đó là một buổi chiều hồng nhạt có mây trĩu nặng. Khi bước qua ngưỡng cửa, nói chuyện với một người khác về những việc khác hẳn, “bờ bên kia”, cái bất khả tri ở đó. Sự có mặt của nó không ngờ, bởi vì chúng tôi vẫn đang nói chuyện nghiêm túc với nhau và nó ở đó nhấn mạnh đến nỗi buổi tiếp xúc gián đoạn dễ dàng, một cách tự nhiên. Người kia không để ý đến sự thay đổi tính chất bầu không khí, tiếp tục nói về việc gì đó mà không đòi hỏi lời đáp. Chúng tôi đi bộ đã lâu, gần như không nói một lời, đi chung, bao bọc, chìm đắm. Đó là cái bất tri triệt để, dù có đến có đi; mọi mưu toan tìm biết đã dừng lại vì tìm biết còn dựng lên cái đã biết. Mỗi lần chơn mỹ càng “to lớn”, mãnh liệt hơn và sức mạnh thì huyền diệu. Điều này cũng là bản thể của tình yêu.

Ngày 16.

Buổi chiều yên tĩnh, mây rút lui để rồi tụ hợp lại chung quanh mặt trời lặn. Cây cối lay động trước cơn gió bây giờ đứng im để chờ đợi đêm xuống; chim chóc trở về trú trong tàng lá rậm rạp. Hai chim cú con đậu trên sợi dây nhìn đăm đăm chúng tôi. Và như mọi khi, những ngọn đồi vẫn cô đơn và xa cách, xa rời mọi lay động; cả ngày chúng đã chịu đựng tiếng ồn trong thung lũng, nhưng bây giờ rút lui khỏi mọi thứ và, ngoại trừ ánh trăng yếu ớt, bóng tối đã buông phủ xuống chúng. Mặt trăng được viền quanh bởi một vầng sáng do đám mây bốc hơi; mọi sự đều chuẩn bị yên nghỉ, trừ những ngọn đồi. Chúng không bao giờ ngủ; luôn luôn thức, chờ đợi, chúng quan sát và chuyện trò với nhau, không ngừng. Hai chim cu con trên dây gây ồn từng hồi, như viên đá lúc lắc trong một hộp sắt; tiếng ồn có vẻ như mạnh hơn đối với thân thể của chúng không lớn hơn nắm tay; nhưng về đêm, chúng bay chuyền từ cây này sang cây khác, và cũng im lặng như bọn chim ụt. Chúng rời khỏi dây, bay thấp xuống, sát bụi cây, rồi lại cất cánh vút cao cho đến những cành cây đầu tiên và nhìn ngó từ đó, với khoảng cách an toàn; nhưng quyền lợi của chúng không kéo dài. Dưới thấp, trên cây cột cong queo, một con chim ụt lớn màu nâu, đôi mắt khổng lồ, mỏ bén nhọn nhô ra giữa hai mắt cú vọ. Nó bay vù lên rất nhẹ nhàng, rất ung dung, bắt ta phải nghĩ ngợi trước cơ cấu và sức mạnh của đôi cánh tuyệt đẹp; bay vào đồi, nó biến mất trong bóng tối. Chắc chắn là con chim ụt này và vợ nó kêu hú thật trầm để gọi lẫn nhau trong đêm; đêm qua, có lẽ chúng đã bay vào thung lũng, phía sau đồi; chúng trở lại, vì chúng ngụ trên đồi phía Bắc, ta có thể nghe chúng gọi nhau nếu im lặng đi qua ban đêm. Bên kia đồi, đất đai mầu mỡ, ruộng đồng xanh um và phì nhiêu. 

Đặt vấn đề kể từ bây giờ không còn là sự nổi loạn, và tất cả những phản ứng không còn ý nghĩa nhiều nữa. Những người này làm cách mạng chống lại những người kia, con chống lại cha; đó là bác bỏ không thừa nhận khuôn phép xã hội, là ý muốn làm vỡ tan gò bó xã hội và kinh tế. Những cuộc cách mạng này có thể là cần thiết nhưng không sâu xa; một khuôn mẫu mới được tạo ra thế chỗ cho cái cũ, phát sinh từ sự hủy diệt cái trước đó, điều này giam hãm tâm thức và, do đó, hủy diệt tâm thức. Cách mạng không ngừng trong lòng tù ngục chỉ là phản ứng lại với cái tức thì; sự sắp xếp đổi mới này, trang trí bức tường nhà giam, có vẻ làm chúng ta hài lòng quá đỗi nên không bao giờ chúng ta phá ngã bức tường. Đặt lại vấn đề, sự bất mãn vẫn nằm trong không gian bị đóng khung, điều này không dẫn chúng ta đi xa lắm; chỉ có thể dẫn đến mặt trăng hoặc bom hạch tâm, nhưng mọi thứ này cũng không ra ngoài ranh giới của đau khổ. Tuy thế, nghi vấn về cơ cấu của nỗi khổ và bờ mé bên kia không phải là một phản ứng đào thoát. Đặt lại vấn đề như thế thật là vô cùng khẩn thiết hơn là đi lên cung trăng hay đi đến đền chùa; chính sự đặt lại vấn đề làm đảo lộn cơ cấu chớ không phải sự thiết lập một nhà giam mới đắt tiền hơn cái trước, với thần thánh và những vị cứu rỗi, kinh tế gia và nhà lãnh đạo. Chính việc đưa ra nguyên nhân mới phá hủy cơ chế của tư tưởng chớ không phải sự thay thế một tư tưởng, một kết luận, một lý thuyết bởi một cái khác. Đặt lại vấn đề như thế sẽ làm rung chuyển quyền hành, quyền hành của kinh nghiệm, của ngôn ngữ và quyền hành tác hại của thế lực, điều được mọi người tôn trọng nhất. Đặt lại vấn đề không xuất xứ từ phản ứng, lựa chọn và động cơ, sẽ làm nổ tung hoạt động vị ngã, đạo đức và đáng kính; chính hoạt động này không ngừng bị cải tổ mà không bao giờ bị sụp đổ. Sự cải tổ này là đau khổ không ngừng. Cái gì có một nguyên nhân và một động cơ đều không tránh khỏi đưa đến sợ hãi và tuyệt vọng. 

Chúng ta sợ hủy diệt trọn vẹn cái đã biết, nền tảng của bản ngã, cái ta và của ta; cái đã biết được ưa chuộng hơn cái bất tri, cái đã biết với mê mờ, xung đột và bất hạnh của nó; giải thoát khỏi cái đã biết có thể phá tan cái mà chúng ta đặt tên là tình yêu, tương giao, vui thích, v.v… Giải trừ cái đã biết, đặt lại vấn đề có tính cách làm nổ tung, không phát xuất từ phản ứng, sẽ chấm dứt đau khổ, và tình yêu là như thế đó mà cả tư tưởng lẫn cảm thức đều không thể lượng giá được. 

Đời sống của chúng ta quá trống trải và phiến diện, dựng lập từ tư tưởng và những hoạt động vô nghĩa đượm màu xung đột và đau khổ, luôn luôn lênh đênh từ cái đã biết đến cái đã biết, trong sự săn tìm an ổn tâm lý. Tuy mạnh mẽ ngang với ý muốn, cái đã biết lại không cho chúng ta an ổn. An ổn thuộc vào thời gian và thời gian tâm lý không hiện hữu; đó là huyền thoại, là ảo tưởng nuôi dưỡng sợ hãi. Không có gì thường hằng, trong hiện tại cũng như tương lai gần, tương lai xa; cái khuôn đúc bởi tư tưởng và cảm thức tức cái khuôn của cái đã biết, đều bị nghiền nát bởi sự đặt lại vấn đề và bởi sự lắng nghe đúng đắn. Biết mình, biết những tập quán thói quen của tư tưởng và cảm thức, do sự lắng nghe mỗi thứ chuyển động của chúng, sẽ chấm dứt cái đã biết. Cái đã biết đưa đến đau khổ và tình yêu là giải thoát khỏi cái đã biết.

Ngày 17.

Mặt đất có màu sắc của bầu trời; ngọn đồi, đồng ruộng xanh um, chín muồi, cây cối và lòng sông đầy cát lẫn lộn; trên đồi, mỗi viên đá và cả những khối lớn đá trôi giạt trở thành mây, và mây thành đá. Trời là đất và đất là trời; mặt trời lặn đã biến đổi tất cả. Bầu trời biến thành ngọn lửa chói lòa bừng lên trong mỗi một góc mây, mỗi cục đá và mỗi cọng cỏ, trong mỗi hạt cát. Bầu trời thịnh nộ rực sáng màu xanh, đỏ tía, tím, chàm. Trên ngọn đồi này đó là một chuyển động rộng lớn màu đỏ tía và vàng, trong khi phía nam mòn mỏi một màu lục tinh tế, những màu xanh mờ dần; phương Đông, đối diện với mặt trời lặn, bầu trời được điểm tô với màu đỏ “cardinal” pha lẫn với màu vàng cháy, màu đỏ thẫm, tím nhạt. Phía Tây nổ ra biết bao vẻ diễm lệ; vài đám mây tụ họp chung quanh mặt trời lặn, làm thành một ngọn lửa tinh khiết, không khói, không bao giờ tắt. Cái bao la vô tận, cường lực của ngọn lửa này thâm nhập tất cả, ngay cả trong thân của quả đất. Đất là trời và trời là đất. Mọi vật đều sống động, bừng lên sắc màu và màu sắc là thượng đế, nhưng không phải là thượng đế của con người. Những ngọn đồi trở nên trong suốt, mỗi viên đá, mô đá, không trọng lượng, trôi nổi trong màu sắc và những quả đồi phía xa nhuộm một màu xanh, màu xanh của tất cả biển nước, màu trời của tất cả bến bờ. Đồng ruộng lúa chín màu phớt hồng, lục đậm đà, có diện tích làm chúng ta phải chú ý tức khắc. Và con đường xuyên qua thung lũng, màu đỏ tía và trắng, sinh động đến nỗi trông giống một tia sáng xuyên ngang bầu trời. Chúng ta hình thành từ ánh sáng đó, nóng bỏng, giận dữ, nổ tung không một chiếc bóng, không căn nguyên và không ngôn từ. Và khi mặt trời xuống thấp hơn, mỗi màu sắc đậm đà hơn, dữ dội hơn và chúng tôi bị lạc lõng, rã rời. Đây là một buổi chiều không lưu niệm. 

Mỗi tư tưởng, mỗi cảm thức phải nảy nở để sống và chết; mọi sự đều nảy nở phát triển trong con người, khát vọng, tham lam, thù hận cũng như vui mừng, dục vọng; chính trong sự nảy nở mà có cái chết và tự do. Mọi sự vật chỉ có thể nảy nở trong tự do, không phải trong dồn ép, bó buộc và kỷ luật, những thứ này chỉ có làm suy đồi và hư hỏng. Nảy nở và tự do là thiện tánh và đức hạnh toàn vẹn. Để cho tham muốn nảy nở không phải là việc dễ dàng; nó bị kết án hay nuôi dưỡng, nhưng không bao giờ để cho tự do. Chỉ trong tự do sự kiện thực tế của tham muốn mới biểu lộ màu sắc, hình thể, chiều sâu và đức tánh của nó; nó sẽ không biểu lộ một cách toàn mãn, tự do trong dồn ép. Khi nó hoàn toàn phơi bày, nó chỉ chấm dứt để biểu lộ những sự kiện khác là trống trải, cô đơn, sợ hãi; khi mỗi sự kiện được tự do để bừng nở tròn đầy, xung đột sẽ dừng bặt giữa người quan sát và đối tượng bị quan sát; lúc đó không còn người phán xét nữa, chỉ riêng có quan sát, nhìn xem sự vật. Tự do chỉ có thể có trong sự thành tựu, chớ không phải trong sự lặp đi lặp lại, sự dồn ép, tuân thủ một khuôn mẫu của tư tưởng. Chỉ có thành tựu trong nảy nở và cái chết; không nảy nở thì không có chấm dứt. Chính tư tưởng ở trong thời gian hàm sẵn tính tương tục. Nảy nở tư tưởng làm chấm dứt tư tưởng, vì chỉ có trong cái chết mới phát sinh cái mới mẻ. Cái mới mẻ sẽ không xuất hiện nếu không có giải thoát khỏi cái đã biết. Tư tưởng tức quá khứ, không thể gây ra cái mới; tư tưởng phải chết đi thì cái mới mới hiển bày. Cái gì nở phải tàn. 

Xem mục lục