Thiền sư Viên Chiếu (999 – 1090, đời thứ tư dòng Vô Ngôn Thông)
Hỏi: "Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi người, ngộ được bản ý gọi là xuất thế, sao gọi là bản ý?".
Đáp:
"Xuân dệt như hoa gấm,
Thu sang lá tự vàng".
📗Thiền sư Chân Không (1045 – 1100, đời thứ 16, dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi)
Tăng hỏi:
"Thế nào là khai minh?"
Sư đáp:
"Khai minh chiếu khắp cõi ta bà,
Tất cả chúng sanh chung một nhà".
Tăng lại thưa:
"Tuy nhiên không biện rõ.
Chốn chốn đều gặp y.
Cái gì là y?"
Sư đáp:
"Kiếp hỏa cháy tan mảy may sạch,
Núi xanh như cũ, mây trắng bay".
Tăng hỏi:
"Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?
Sư đáp:
"Xuân đến, xuân đi ngờ xuân hết,
Hoa tàn, hoa nở chỉ là xuân".
Tăng suy nghĩ. Sư quát rằng:
"Đất bằng sau nhiều năm,
Thực vật đều thơm ngát".
Tăng lễ bái.
📗Thiền sư Trường Nguyên (1110 -1165, đời thứ 10, dòng Vô Ngôn Thông)
"Khỉ vượn bồng con lại núi xanh,
Từ xưa hiền thánh không mối manh.
Oanh hót xuân về trăm hoa nở,
Thu đến cúc vàng mất dáng hình".
Sư thường bảo mọi người:
_Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh nầy có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê mờ chẳng thấy chẳng biết. Ta thường đem đạo lý dạy dỗ, khiến họ vĩnh viễn xa lìa vọng tưởng chấp trước khiến nơi tự thân mà thấy trí huệ rộng lớn Như Lai, được lợi ích an lạc.
Đến ngày 7 tháng 6 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ ba (1165), Sư có chút bệnh, nói kệ dạy chúng:
"Tại quang tại trần,
Thường lìa quang trần,
Lòng dạ trong vắt,
Cùng vật không thân,
Thể vốn tự nhiên,
Ứng vật vô ngần
Ở ngoài trời đất,
Vượt cả nhân luân.
Nuôi nấng vạn vật,
Cùng vật làm xuân,
Làm gái sắt múa,
Người gỗ trống khua".
Nói kệ xong, Sư viên tịch, thọ 56 tuổi.
Nền huấn học thiên về hướng nội và minh triết ở phương Đông đã sản sinh ra những bậc thầy như thế. Trong số những bậc thầy tỏa sáng mọi thời ấy, không thể không nói đến Khổng Tử. Trước hết, ông là bậc thầy học không biết chán, dạy không biết mệt (học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện) và đã dạy dỗ đến 3.000 môn đệ..
Khổng Tử là một trong vài nhân vật đã ảnh hưởng sâu xa đến lịch sử nhân loại bằng bản lĩnh nhân cách, tài năng trí tuệ, và những thành tựu cá nhân. Chúng ta không thể nào giải thích cặn kẽ được sự xuất hiện của các nhân vật như thế, nhưng nhờ xem xét các hoàn cảnh sinh bình của họ, ít nhất ta cũng có thể hiểu thêm về họ.
Dù nỗ lực nhưng chúng ta vẫn thấy khó hiểu được Khổng Tử, vì biết bao truyền thuyết về ông đã tích lũy qua nhiều thế kỷ khiến ta rất khó thấy được sự thật. Các thêm thắt tô điểm này phát xuất từ hai động cơ khác biệt. Một mặt, những kẻ trung thành với Khổng Tử bấy lâu vẫn hằng mong xưng tán ông và vì thế đã thực hiện những điều sùng tín, như tạo ra một gia phả đầy thêm thắt, cho rằng tổ tiên xa xôi của ông cũng là hoàng tộc..
Phương Tây có rondeau, ballad, sonnet…Phương Đông có Đường thi, cổ phong, có sloka, có Sijo, lục bát…đều là những thể thơ cổ ngắn gọn, nhỏ nhắn, xinh xắn như lá trên cành. Các thể thơ trên đều được ghi nhận như những thành tựu đỉnh cao trên hành trình văn học và thi ca cổ điển của từng dân tộc và cả thế giới. Trong vườn thơ ca ấy có thể thơ Haiku của Nhật Bản với 17 âm tiết (5-7-5) là thật đơn sơ và dung dị. Có thể ví von Haiku như chiếc lá bé nhỏ nhất trên cội cành xum xuê của cổ thụ ngàn thơ..
Đức Liên Hoa Sinh đến với thế giới mà không cần cha hay mẹ, ngài xuất hiện trong một đóa sen nở. Ngài sống ở Ấn Độ trong hơn một ngàn năm và ở Tây Tạng trong 55 năm trước khi ngài từ bỏ thế giới này ở một ngọn đèo tên là Gungtang, Đồng Bằng trên trời, ở biên giới Nepal – Tây Tạng. Bốn vị Dakini đã đến hỗ trợ cho con ngựa của ngài, và rước ngài đến Núi Huy Hoàng màu đồng đỏ, một cõi tịnh độ..
Geshe Ngawang Dhargyey
Lobsang Gyeltsen thông dịch tại Dharamsala, Ấn Độ, năm 1979
Samaya Hart và Alexander Berzin hiệu đính, tháng Mười Một, 2003
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên, Lozang Ngodrub hiệu đính
Hôm nay tôi muốn nói về ngồi thiền, thiền định của Thiền. Ở đây Đạo Nguyên bắt đầu như thế trong Phổ khuyến toạ thiền nghi, bản văn nền tảng về ngồi thiền :
Đạo vốn hoàn hảo và hiện hữu khắp. Làm sao nó có thể phụ thuộc vào thực hành và chứng ngộ? Thừa pháp thì tự do và vô ngại. Cần gì nỗ lực tập trung? Thật vậy, toàn thân thì khỏi hẳn bụi bặm thế gian. Ai có thể tin vào một phương tiện chùi sạch nó? Nó không hề lìa khỏi người ta, ngay chỗ người ta hiện hữu. Rời đây hay kia để thực hành phỏng có ích gì?
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) là một nhà kinh bang tế thế vừa là một vị Tổ đã sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm của Việt Nam. Mãi đến ngày nay sự ca ngợi ngài trong toàn dân Việt Nam càng lan rộng. Có thể nói, ngài là người Việt Nam lý tưởng nhất, cổ xưa nhất (vì gần giống với Đức Phật và các đệ tử Phật cách thời ngài gần 2000 năm) đồng thời cũng hiện đại nhất (vì hiện giờ những nghiên cứu về ngài càng lúc càng nhiều)..
Trong suốt thời gian từ năm 1000 đến 1200 khi người Tây tạng đã có những tu viện vĩ đại khắp nơi, họ vẫn tiếp tục du hành đến Ấn Độ để học hỏi những giáo pháp mới lạ. Các nhà sư Tây Tạng đã bỏ công để phiên dịch những tài liệu Phật giáo của Ấn Độ, nhưng khi Phật giáo phát triển hơn nữa tại Tây tạng thì còn có rất ít lý do để phải du hành qua xứ Ấn.
Từ năm 18 tuổi, Viên Nhĩ Biện Viên đã là một danh tăng trên đất Nhật, được mọi người ngưỡng mộ vì kiến thức uyên thâm. Thế nhưng, không bằng lòng với chính mình, Viên Nhĩ đã lặn lội sang tận Trung Quốc để cầu pháp. Và cuộc hành trình vượt biển cầu pháp của vị Quốc sư đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản cho tới nay vẫn còn là một huyền thoại khiến nhiều người phải thán phục...