TÌM HIỂU PHẬT TÁNH
THEO KINH LUẬN
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
Ngoài những kinh của lần chuyển pháp luân thứ ba nói về Phật tánh như kinh Thắng Man, kinh Lăng Già, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bát Niết Bàn… chúng ta có nhiều kinh luận nói về Phật tánh như Luận Đại Thừa Khởi Tín, Luận Phật Tánh (của Maitreya)…
Trong bài này chúng tôi sử dụng kinh Đại Bát Niết Bàn dựa trên các bản Việt dịch, một là bản dịch của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Tiến Minh và một bản dịch của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh.
1. Phật tánh
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói nhiều lần trong chương Như Lai tánh: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. “Sư tử rống gọi là lời nói quyết định: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ không có biến đổi. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành Vô thượng Bồ đề. Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng tội và nhất xiển đề đều có Phật tánh” (Chương Sư tử hống Bồ-tát).
Sự khẳng định này không chỉ là sự khẳng định tất cả chúng sanh đều sẽ đạt đến Đại Niết-bàn, mà còn khẳng định tất cả các biểu hiện của đời sống đều có mục đích để đạt đến Phật tánh Niết-bàn. Phật tánh là bản đại giao hưởng anh hùng ca hài hòa mọi kinh nghiệm sống, mọi kiếp sống, thành một vị Niết-bàn của chiến thắng tối hậu.
“Phật dạy: Y vào pháp tức là Như Lai Đại Bát Niết Bàn.Tất cả Phật pháp tức là Pháp tánh. Pháp tánh ấy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thường trụ bất biến. Nếu có người bảo: Như Lai vô thường, thì người đó không thấy không biết Pháp tánh” (chương Như Lai tánh, Tứ y).
“Phật tánh tức là Pháp thân Như Lai. Thân Như Lai là thân thường trụ, bất sanh bất diệt, là thân kim cương vĩnh viễn bất hoại, đây tức là Pháp thân” (chương thân Kim Cương).
Phật tánh là Chân Không Diệu Hữu:
“Pháp thân là Thường, Lạc, Ngã,Tịnh lìa hẳn sanh già bệnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn thường trụ, chẳng động, chẳng biến đổi. Các đệ tử của Ta nghe lời này mà chẳng hiểu được ý, bèn cho rằng Như Lai nói thân Phật là pháp vô vi”.
“Ta từng nói Phật tánh có đủ sáu tính chât: Một là Thường, hai là Thật, ba là Chân, bốn là Thiện, năm là Tịnh, sáu là Có Thể Thấy. Các đệ tử của Ta nghe lời này chẳng hiểu được ý bèn cho rằng Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có”.
“Ta lại nói Phật tánh của chúng sanh như hư không. Hư không chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải trong ngoài, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc, Phật tánh cũng như vậy. Các đệ tử của Ta nghe lời này chẳng hiểu được ý bèn cho rằng Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có”.
“Ta lại nói chúng sanh chính là Phật tánh, vì nếu rời chúng sanh thì chẳng được Vô thượng Bồ-đề” (chương Ca-Diếp Bồ-tát).
“Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị lôi kéo, chẳng bị bắt, chẳng bị trói buộc” (chương Sư tử hống Bồ-tát).
Qua những câu kinh này, chúng ta thấy Phật tánh là thường trụ, không biến đổi, trùm khắp, không bị nhiễm ô dù bị trọng tội hay biến mất bởi kẻ không tin (nhất xiển đề). Phật tánh chẳng hề rời ngoài chúng sanh, dù chúng sanh còn chưa biết nó.
Nghĩa chính yếu của Phật tánh là thường trụ, như Phật, Pháp, Tăng là thường trụ (chương Kim Cương Thân). Thường trụ có nghĩa là vẫn có ở đó, bất chấp chúng ta có biến đổi thế nào, bất chấp chúng ta có hiện hữu hay không.
Phật tánh nội tại trong ngã và pháp, nhưng siêu việt khỏi ngã và pháp. Kinh nói: “Tánh ngã và tánh Phật. Không hai không sai biệt” (chương Như Lai tánh). “Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, vôn không chỗ trụ. Dùng phương tiện khéo thì thấy được. Vì được thấy nên được Vô thượng Bồ đề (chương Quang Minh Biến Chiếu).
Phật tánh thì đồng nhất ở cả ba thừa: “Thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát đồng một Phật tánh như vậy…. Tại sao ba thừa không khác nhau? Sau này, các chúng sanh ấy mới tự hiểu rằng tất cả ba thừa là đồng một Phật tánh” (chương Như Lai tánh).
Chính vì đồng một Phật tánh, nên Phật giáo rốt lại chỉ có Nhất thừa: “Ba là đồng một vị: Tất cả chúng sanh đồng có Phật tánh, đều đồng Nhất thừa, đồng một giải thoát, một nhân một quả, đồng một cam lộ. Tất cả đều sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh; đây gọi là đồng Một Vị” (chương Sư Tử Hống Bồ-tát)
Kinh ví Phật tánh như biển cả chung cho mọi làn sóng hiện tượng chúng sanh: “Điều thứ tám là Phật tánh chẳng thêm chẳng bớt, vì không ngằn mé, vì không bắt đầu và chấm dứt, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải tạo tác, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một tánh là Phật tánh. Đây gọi là không thêm không bớt. Do đây nên kinh Đại Niết Bàn này có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như biển cả kia” (chương Sư Tử Hống Bồ-tát).
2. Phật tánh trong các tông phái thực hành
Trong Thiền tông, Lục tổ Huệ Năng gọi Phật tánh này là tự tánh: “Các thiện tri thức! Tự tánh Bồ đề xưa nay vốn thanh tịnh, chỉ dùng tâm này bèn được thành Phật” (Phẩm Hành Do thứ nhất). “Thiện tri thức! Trong mỗi niệm mỗi niệm, thường tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo”.
Trong phẩm Hành Do thứ nhất, Lục tổ kể về cơ duyên ngộ tánh của mình: “Ngũ tổ giảng cho Lục tổ kinh Kim Cương, khi nghe tới câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, thì Huệ Năng ngay dưới lời nói đại ngộ, thấy rõ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh. Mới thưa với Tổ rằng:
Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh Nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt Nào ngờ tự tánh vốn tự tròn đủ Nào ngờ tự tánh vốn không động lay Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp”.Lục tổ có giảng về Phật tánh trong phẩm thứ nhất như sau: “Phật nói: Thiện căn có hai: một là thường, hai là vô thường; mà Phật tánh chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vậy nên chẳng dứt, ấy gọi là ‘chẳng hai’. Lại nữa, một là thiện hai là chẳng thiện, mà Phật tánh chẳng phải thiện chẳng phải chẳng thiện ấy gọi là pháp ‘chẳng hai’ Năm uẩn và mười tám giới từ nơi phàm phu thấy thành hai, con người trí thì rõ suốt tánh nó ‘không hai’, cái tánh ‘không hai’ ấy tức là Phật tánh”.
Lục tổ còn nói về Phật tánh khá nhiều như nói với Phương Biện rằng “Ngươi khéo về tánh đắp mà chẳng rõ tánh Phật”, giảng cho ni cô Vô Tận Tạng về kinh Đại Bát Niết Bàn, hay giải rõ cho Chí Triệt về Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn…
Đại sư Padmasambhava, sơ tổ dòng Nyingma, người đã đem hệ thống Mật giáo Ấn Độ vào Tây Tạng, trong đó pháp Đại Toàn Thiện Dzogchen là pháp cao nhất thì luôn luôn đưa đệ tử vào Phật tánh để đệ tử thấy Phật tánh và thường trực an trụ trong đó:
Hãy nghe đây, Dorje Dudjom họ Nanam! Cái gọi là ‘tâm sáng tỏ của giác ngộ’ Là vốn sắn bên trong, bổn nhiên tự hữu và không tâm điểm cũng chẳng chu vi. Chớ sửa chữa, chỉnh trang nó, mà ngay trong trạng thái vốn tự giác và trong sáng tự nhiên Hãy không thay đổi, không làm biến chất, mà hãy an trụ, giải thoát trong tánh bổn nhiên! Ở yên như thế, tâm con thoát khỏi vọng niệm Chính nó là Phật!(Những lời Khai Thị của Đức Liên Hoa Sanh về Con Đường Đại Toàn Thiện, Thiện Tri Thức, Nxb VHPG, 2009, trg 105).
Đại sư Milarepa, vị tổ thứ tư của dòng Kagyu Tây Tạng(mà chót đỉnh là Đại Ấn Mahamudra) nói về Phật tánh:
Thức nền tảng, vĩnh cửu và không biến dịch Là người dẫn đường để thoát khỏi sanh tử luân hồi Hạnh phúc thay cho người nào biết sanh tử và niết-bàn là không hai; Kỳ diệu thay, sự gieo trồng cho vụ mùa này! Sự tu hành định thanh tịnh không phóng dật này Là người dẫn đường cho tánh Giác tinh khiết. Hạnh phúc thay cho người nào biết cái hiện tiền là không hai Kỳ diệu thay tánh Giác thanh tịnh như hư không này!(Uống Dòng Suối Núi, Milarepa, Thiện Tri Thức 2002)
Như thế, Thiền, Dzogchen và Mahamudra đều giống nhau ở Nền tảng là Phật tánh, Con đường đi đến Phật tánh trọn vẹn, và Quả là Phật quả.
3. Phật tánh trong Phật giáo Việt Nam
Thế kỷ thứ VI, Đại sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đem Thiền tông vào Việt Nam. Cái ngài trao truyền, khai thị gọi là Tâm Ấn. Cái tâm ấn này chính là Phật tánh:
Tâm ân chư Phật Tất không lừa dối Tròn đồng thái hư Không thiếu không dư Không đi không đến Không được không mất Chẳng thường chẳng đoạn Vốn không chỗ sanh Cũng không chỗ diệt … Bởi thế chư Phật ba đời Cũng dùng như thế mà được Tổ sư nhiều đời Cũng dùng như thế mà được Ta cũng dùng như thế mà được Ngươi cũng dùng như thế mà được Cho nên hữu tình vô tình Cũng dùng như thế mà được…Dòng Thiền thứ hai, do Đại sư Vô Ngôn Thông truyền vào đầu thế kỷ thứ IX. Cái ngài truyền cũng là Phật tánh bất sanh bất diệt:
…
Truyền pháp nhãn tạng Gọi đấy Thiền … Tâm tông đều gọi Thanh tịnh bản nhiên Tây Thiên cõi này Cõi này Tây Thiên Xưa nay nhật nguyệt Xưa nay sơn xuyên Chạm đến thành trệ Phật Tổ thành oan Sai Nó mảy may Mất nó trăm ngàn. Ngươi khéo quan sát Chớ lừa cháu con Có hỏi người ta Ta vốn Vô Ngôn.Nhà vua thiền sư Trần Thái Tông (thế kỷ XIII) nói:
“Nào biết tánh Giác Bồ-đề, ai nấy đều vốn viên thành, có biết đâu thiện căn trí huệ, người người nguyên đều sẳn đủ. Chẳng kể đại ẩn hay tiểu ẩn, đâu có phân gì tại gia xuất gia. Chẳng nề tăng hay tục, chỉ cốt rõ tâm, nào kể gái trai, cớ sao vướng mắc hình tướng? Người chưa hiểu chia bừa thành Tam giáo, kẻ rõ rồi cùng ngộ một chữ Tâm. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, đều được rõ tánh thành Phật. Huống gì thân người dễ mất, Phật pháp khó gặp. Muốn vượt vòng luân hồi sáu nẻo, chỉ có con đường tắt Nhất thừa”.
Tác phẩm Nam Hải Quan Âm mở đầu bằng các câu:
Chân Như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân Hiếu là độ được đấng thân Nhân là cứu thoát trầm luân mọi loài Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cùng trong Một Điểm Linh Đài hóa ra.Thiền sư Chân Nguyên (thế kỷ XVII) viết trong Thiền tông Bản Hạnh:
Thuở xưa trời đất chưa sanh Cha mẹ chưa có, thực mình Chân Không Chẳng có tướng mạo hình dung Tịch quang phổ chiếu viên đồng thái hư Thánh phàm vô khiếm vô dư Bất sinh bất diệt như như Di Đà Liễu tri vạn pháp không hoa Văn tự ngôn ngữ ấy là vọng duyên Chân Như tánh vốn thiên nhiên Vô tạo vô tác căn duyên của nhà.Con đường Thiền Việt Nam là thấy Phật tánh, tin nhận Phật tánh rồi y vào đó mà tu, mà phát huy, mà tự khai mở trước Phật tánh vốn có từ “thuở trời đất chưa sanh” đó là ‘khuôn mặt xưa nay’ thuở “cha mẹ chưa có thật mình Chân Không”, đó là cái “vô tạo vô tác căn duyên của nhà”, cái “bất sanh bất diệt như như Di Đà”, mà “thánh không dư phàm không thiếu”.
Con đường Thiền Việt Nam là con đường Nhất thừa “khai thị ngộ nhập” Phật tánh vậy.
Nguyễn thế Đăng
Theo: Văn Hóa Phật Giáo số 108
GARCHEN RINPOCHE
Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện” - NXB: T. T. T
Những Thành Tựu. BẢN DỊCH MỚI TỪ TIẾNG TÂY TẠNG BỞI LOBSANG P. HALUNGPA, THIỆN TRI THỨC, 2000.
Lạc lõng trong sanh tử từ thời vô thủy đến nay,
Bất cứ điều gì con đã làm đều sai lầm và sẽ dẫn đến thêm sự lạc lõng.
Từ lòng con, hãy thừa nhận mọi tà hạnh và sa đọa, và sám hối chúng.
Với bốn năng lực làm cho trọn vẹn, hãy trì tụng thần chú sáu âm.
DILGO KHYENTSE RINPOCHE
(Định tâm đúng sẽ mở ra con đường đúng trong tu hành Phật giáo, định tâm đúng là lần đầu chạm tới tánh Không, hay bản tánh của tâm ở góc độ tâm rỗng rang sáng tỏ, tịch chiếu không hai. Từ đây thực hành đúng đường sẽ khám phá ra mọi hoạt dụng của tâm nhờ ở góc độ định tâm này. Mời các bạn tham khảo!)
TÍNH BÌNH ĐẲNG Phúc Âm Theo Thánh Marcô 3, 31-35
Thưa thầy, các vị Bồ Tát ngộ tánh Không này thì đại định, có bao giờ tánh Không có đại có tiểu hay không?
Sưu tầm: Chánh Tri
NÃO, TÂM VÀ Ý THỨC - Tác giả : SUSAN GREENFIELD. Chuyển ngữ: Pháp Hiền cư sỹ
Ngay từ thời thượng cổ, đã xuất hiện những triết gia mô phạm hoàn hảo cho tinh thần độc lập. Họ độc lập thứ nhất vì ra như họ không còn nhu cầu; đã thoát ly thế gian, những của cải vật chất và những bản năng cuồng nhiệt, họ mới sống cuộc đời khổ hạnh. Thứ hai, họ không sợ sệt vì họ đã nhìn rõ sự lừa đảo trong những huyền thoại các tôn giáo đã tạo bừa ra để gieo sợ hãi vào lòng người. Thứ ba, họ không tham gia chính quyền và chính trị, họ sống an nhàn xa xã hội, không liên hệ với một cái gì cả, y như những người tự xưng là công dân thế giới..
Lê Tôn Nghiêm dịch (1969)
Luận lý học là một khoa thuộc về triết học, dạy người ta tư tưởng theo phép tắc chánh đáng cho khỏi sai lầm. Nó sanh sản ra từ trong học giới Âu châu, nguyên tên nói theo tiếng Anh thì viết Logic, còn theo tiếng Pháp thì viết là Logique. Người Nhựt Bổn dịch ra là Luận lý học.
Nhiều nhà học giả nước Tàu ngày nay cho cái tên luận lý học là không đúng, mà bảo phải kêu Logic hay Logique bằng “Danh học”. Tuy vậy, người ta dùng chữ luận lý học quen rồi, cho đến những nhà bác học cũng dùng đến luôn luôn. Vì vậy, tôi cũng theo thói quen mà dùng như người ta..
PHAN KHÔI (1887-1959)
Sự Tu Tập Toàn Diện - Joan Sutherland - Thị Giới chuyễn Việt ngữ (Đã đăng trên Văn Hóa Phật Giáo)
TTO- Bằng chứng về một trận siêu sóng thần cách đây 73.000 năm được các nhà khoa học phát hiện và họ e ngại siêu sóng thần có thể tái diễn trên địa cầu..
Chùa Thái Bình là một ngôi chùa cổ tại vùng Quảng Nam xưa, nay thuộc vùng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Theo Ngũ Hành Sơn lục thì “Dưới thời Hồng Đức, Vua Lê Thánh Tôn đánh Chiêm Thành, đặt đạo Quảng Nam, người Bắc kỳ đến ở đây. Phía dưới núi có hai chùa Vân Long và Thái Bình ( biển chùa ở hai làng Hóa Khuê, Quán Khái)” 1 .Như thế, hai chùa Vân Long và Thái Bình được tạo dựng từ rất sớm nhưng qua thời gian đã bị hư hại nhiều..
Đồng Dưỡng
Lý sự dung thông là tác phẩm do thiền sư Minh Châu Hương Hải soạn theo lối thơ Nôm, thể song thất lục bát, gồm 162 câu. Tuy ngắn gọn nhưng có một giá trị nhất định như quan niệm hòa đồng tam giáo, quan niệm về lối sống của Phật tử Việt Nam mà học giả Lê Mạnh Phát đã bàn :” Một lối sống trượng phu trung hiếu” và “một thời kỳ mà cuộc sống đạo và đời hòa quyện chặt vào nhau, đúng như yêu cầu Cư trần lạc đạo mà Trần Nhân Tông đã đề ra”..
Đồng Dưỡng
Sau nhiều thiện xảo công phu tìm được Căn bản Thượng sư cho mình thì điều quan trọng là bạn phải thực sự vâng theo Ngài. Tương tự như đi tìm việc làm, khi đã tìm được một công việc cụ thể, bạn phải thực hiện theo những quy định của công việc và phải biết được giá trị và tầm quan trọng của công việc đó. Điều này giống như khi vâng theo một Thượng sư với tâm thành kính chí thành..
Gyalwang Drukpa Xii
Đã có không ít những nhà nghiên cứu lịch sử công nhận rằng ngay từ thời kỳ đầu của đất nước, lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử Phật giáo Việt Nam. Như vậy, thiết nghĩ triết lý sống của người Phật tử Việt Nam có thể bắt nguồn, một mặt từ tiến trình hình thành phát triển lịch sử dân tộc Việt, mặt khác từ quá trình tiếp biến giáo lý căn bản Phật giáo mà dân tộc ta đẽ trải nghiệm, hành trì trong viêc thực nghiệm đời sống tâm linh..
Thích Phước Đạt