Padmakara, đạo sư của Uddiyana, ngụ ở Samye sau khi được vua mời qua Tây tạng. Ngài ban nhiều lời dạy cho vua,các lãnh chúa, và các thiện nam tín nữ nơi phần phía đông của chánh điện. Vì họ không hiểu chính xác, ngài lập lại lời khuyên bảo này.
Đạo sư Padma nói : Dầu ta dạy nhiều bao nhiêu, dân Tây Tạng cũng không hiểu ; thay vào đó, họ chỉ dấn mình vào các việc tồi tệ. Nếu các ông muốn thực hành giáo pháp từ trong cốt lõi của lòng mình, hãy làm thế này :
Là một cư sĩ Phật giáo không có nghĩa là chỉ giữ gìn bốn giới căn bản ; mà có nghĩa là vất bỏ các hành động xấu ác. Là một sa di không có nghĩa là chỉ thừa nhận một bề ngoài trong sạch ; mà có nghĩa là thực hành đức hạnh một cách đúng đắn. Là một Tỳ kheo không có nghĩa là chỉ kiểm soát, thân, khẩu, ý trong hoạt động thường nhật và bị cấm làm mọi thứ ; mà có nghĩa là đem mọi nguồn gốc của đức hạnh vào con đường đại giác ngộ.
Là giới đức không đơn giản chỉ là mặc y vàng, mà có nghĩa là sợ sự chín thành của nghiệp. Là một người bạn đạo không có nghĩa là có một thái độ có phẩm giá; mà có nghĩa là một người bảo bọc vinh quang cho bất kỳ ai. Là một thiền giả không chỉ có nghĩa là sống một cách chân chất, mà có nghĩa là hòa tâm mình với bản tánh của pháp tánh.
Là một mantrika không có nghĩa là lẩm bẩm các thần chú; mà có nghĩa là đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng qua con đường hợp nhất của phương tiện và trí huệ. Là một thiền giả không có nghĩa chỉ là sống trong một hang động; mà có nghĩa là tu hành trong thật nghĩa (của trạng thái bổn nhiên). Là một ẩn sĩ không có nghĩa là sống trong rừng sâu; mà có nghĩa là tâm người ấy thoát khỏi các tạo tác nhị nguyên.
Có học không có nghĩa là duy trì tám mối quan tâm thuộc thế gian; mà có nghĩa là phân biệt được giữa đúng và sai. Là một Bồ tát không có nghĩa là giữ sự quan tâm bên trong đến chính mình; mà là nỗ lực trong những phương tiện để giải thoát cho tất cả chúng sanh thoát vòng sanh tử.
Có đức tin không có nghĩa là rên rỉ, thút thít; mà có nghĩa là đi vào con đường chánh do biết sợ chết và tái sanh. Chuyên cần không có nghĩa là dấn thân vào các hoạt động khác nhau không ngừng nghỉ; mà có nghĩa là nỗ lực trong các phương tiện để bỏ sanh tử lại đằng sau. Rộng lượng không đơn giản nghĩa là cho theo khuynh hướng và thiên lệch; mà có nghĩa là giải thoát sâu xa khỏi sự bám chấp vào bất cứ sự gì.
Chỉ dạy bằng miệng không có nghĩa là nhiều cuốn sách được viết; mà có nghĩa là một vài lời đánh thẳng vào điểm yếu nghĩa trong tâm anh. Cái thấy không có nghĩa là quan điểm triết học; mà có nghĩa là thoát khỏi mọi giới hạn do tâm thức tạo ra. Thiền định không có nghĩa là chú tâm vào cái gì đó với tư tưởng; mà có nghĩa là tâm anh an định trong tánh giác bản nhiên, thoát khỏi mọi tập trung.
Hành động tự nhiên không phải là hành động buông thả điên cuồng; mà có nghĩa là tự do khỏi sự trụ vào các tri giác huyễn hóa mà cho là thật. Trí huệ không có nghĩa là trí thông minh sắc bén của tư tưởng ý thức sai lầm; mà có nghĩa là hiểu được rằng mọi hiện tượng đều vô sanh và lìa tâm, ý, ý thức.
Học hỏi không có nghĩa là nhận lời dạy qua lỗ tai; mà có nghĩa là cắt đứt các ý niệm phân biệt sai lầm và có được cái hiểu biết vượt khỏi tâm thức ý niệm. Tư duy không có nghĩa chỉ là theo đuổi sự suy nghĩ theo danh tướng giả định; mà có nghĩa là cắt đứt sự bám níu lầm lạc. Quả không chỉ có nghĩa là các sắc thân được mời thỉnh từ Akanishtha; mà có nghĩa là nhận ra bản tính của tâm và đạt đến sự an định trong đó.
Chớ lầm lẫn những chữ, lời cho là ý nghĩa của các lời chỉ dạy. Hãy hòa lẫn sự thực hành với thân tâm của mình và đạt đến sự giải thoát khỏi sanh tử ngay bây giờ.
Trích: Những Khai Thị Từ Đức Liên Hoa Sanh Về Con Đường Đại Toàn Thiện” - NXB: T. T. T
Lạc lõng trong sanh tử từ thời vô thủy đến nay,
Bất cứ điều gì con đã làm đều sai lầm và sẽ dẫn đến thêm sự lạc lõng.
Từ lòng con, hãy thừa nhận mọi tà hạnh và sa đọa, và sám hối chúng.
Với bốn năng lực làm cho trọn vẹn, hãy trì tụng thần chú sáu âm.
(Định tâm đúng sẽ mở ra con đường đúng trong tu hành Phật giáo, định tâm đúng là lần đầu chạm tới tánh Không, hay bản tánh của tâm ở góc độ tâm rỗng rang sáng tỏ, tịch chiếu không hai. Từ đây thực hành đúng đường sẽ khám phá ra mọi hoạt dụng của tâm nhờ ở góc độ định tâm này. Mời các bạn tham khảo!)
Ngay từ thời thượng cổ, đã xuất hiện những triết gia mô phạm hoàn hảo cho tinh thần độc lập. Họ độc lập thứ nhất vì ra như họ không còn nhu cầu; đã thoát ly thế gian, những của cải vật chất và những bản năng cuồng nhiệt, họ mới sống cuộc đời khổ hạnh. Thứ hai, họ không sợ sệt vì họ đã nhìn rõ sự lừa đảo trong những huyền thoại các tôn giáo đã tạo bừa ra để gieo sợ hãi vào lòng người. Thứ ba, họ không tham gia chính quyền và chính trị, họ sống an nhàn xa xã hội, không liên hệ với một cái gì cả, y như những người tự xưng là công dân thế giới..
Luận lý học là một khoa thuộc về triết học, dạy người ta tư tưởng theo phép tắc chánh đáng cho khỏi sai lầm. Nó sanh sản ra từ trong học giới Âu châu, nguyên tên nói theo tiếng Anh thì viết Logic, còn theo tiếng Pháp thì viết là Logique. Người Nhựt Bổn dịch ra là Luận lý học.
Nhiều nhà học giả nước Tàu ngày nay cho cái tên luận lý học là không đúng, mà bảo phải kêu Logic hay Logique bằng “Danh học”. Tuy vậy, người ta dùng chữ luận lý học quen rồi, cho đến những nhà bác học cũng dùng đến luôn luôn. Vì vậy, tôi cũng theo thói quen mà dùng như người ta..
TTO- Bằng chứng về một trận siêu sóng thần cách đây 73.000 năm được các nhà khoa học phát hiện và họ e ngại siêu sóng thần có thể tái diễn trên địa cầu..
Chùa Thái Bình là một ngôi chùa cổ tại vùng Quảng Nam xưa, nay thuộc vùng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng. Theo Ngũ Hành Sơn lục thì “Dưới thời Hồng Đức, Vua Lê Thánh Tôn đánh Chiêm Thành, đặt đạo Quảng Nam, người Bắc kỳ đến ở đây. Phía dưới núi có hai chùa Vân Long và Thái Bình ( biển chùa ở hai làng Hóa Khuê, Quán Khái)” 1 .Như thế, hai chùa Vân Long và Thái Bình được tạo dựng từ rất sớm nhưng qua thời gian đã bị hư hại nhiều..
Lý sự dung thông là tác phẩm do thiền sư Minh Châu Hương Hải soạn theo lối thơ Nôm, thể song thất lục bát, gồm 162 câu. Tuy ngắn gọn nhưng có một giá trị nhất định như quan niệm hòa đồng tam giáo, quan niệm về lối sống của Phật tử Việt Nam mà học giả Lê Mạnh Phát đã bàn :” Một lối sống trượng phu trung hiếu” và “một thời kỳ mà cuộc sống đạo và đời hòa quyện chặt vào nhau, đúng như yêu cầu Cư trần lạc đạo mà Trần Nhân Tông đã đề ra”..
Sau nhiều thiện xảo công phu tìm được Căn bản Thượng sư cho mình thì điều quan trọng là bạn phải thực sự vâng theo Ngài. Tương tự như đi tìm việc làm, khi đã tìm được một công việc cụ thể, bạn phải thực hiện theo những quy định của công việc và phải biết được giá trị và tầm quan trọng của công việc đó. Điều này giống như khi vâng theo một Thượng sư với tâm thành kính chí thành..
Đã có không ít những nhà nghiên cứu lịch sử công nhận rằng ngay từ thời kỳ đầu của đất nước, lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử Phật giáo Việt Nam. Như vậy, thiết nghĩ triết lý sống của người Phật tử Việt Nam có thể bắt nguồn, một mặt từ tiến trình hình thành phát triển lịch sử dân tộc Việt, mặt khác từ quá trình tiếp biến giáo lý căn bản Phật giáo mà dân tộc ta đẽ trải nghiệm, hành trì trong viêc thực nghiệm đời sống tâm linh..