(Theo các tài liệu Bát Nhã Tâm Kinh Tư Tưởng Đích Hình Thành của Trương Tác Lâm, The First Mileage of Buddhism của Daisaka Ikeda, Tổ Đường Tập, Mahayana Buddhist Mediatation của nhiều tác giả do Minoru Kiyota ấn hành, Bát Nhã Cương Yếu của TKN Hồng Ẩn, v.v…)
Lời giới thiệu của người dịch: Trong khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đang thuyết giảng tại một thành phố lớn ở miền tây nam nước Pháp, thì tại miền đông bắc một tờ nhật báo địa phương đã phỏng vấn một vị Lạt-Ma trụ trì một ngôi chùa tọa lạc trong một ngôi làng thật nhỏ nằm bên bìa một khu rừng, ngôi làng tên là Septvaux và chỉ có hơn hai trăm dân cư. Bài phỏng vấnđăng trên tờ nhật báoL'Ardennais, phát hành ngày 18 tháng 8 năm 2011, và dưới đây là phần chuyển ngữ.
Ngày mười lăm tháng bảy âm lịch là ngày kỷ niệm Tôn Giả Mục Kiền Liên đã cứu mẹ ngài ra khỏi địa ngục. Khi mẹ ngài còn sống, bà không tin Tam Bảo. Bà giết nhiều cá, rùa, tôm, cua và bà ích kỳ không muốn bố thí cho những người thiếu thốn...
Toàn bộ kinh Hoa Nghiêm nói về hạnh nguyện Phổ Hiền. Thế nên trong từng câu kinh chúng ta có thể tìm thấy cho mình niềm tin và sự hăng hái để thực hành con đường Bồ-tát hạnh của Đại Hạnh Phổ Hiền. Chính qua thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền mà pháp giới Hoa Nghiêm dần dần hiển lộ ra với chúng ta.
Bản văn dưới đây về Đại Thủ Ấn thường gọi là Mahamudra, còn gọi là Phyag-gGya Chhen-Po do vị đạo sư Ấn Độ Maitripa soạn thảo, và được truyền dạy trực tiếp cho Marpa và từ Marpa truyền dạy cho Milarepa. Pháp môn Đại Thủ Ấn mặc dù được trao truyền và gắn liền với phái Hồng Mạo (Kargyudpa), nhưng vẫn được học và tu tập bởi chư tăng các tông phái khác của Phật Giáo Tây Tạng. Chữ "Đại Thủ Ấn" có nhiều nghĩa, có khi còn gọi là Đại Biểu Tượng, nhưng nghĩa trực tiếp nhất chính là một trực nhận về thế giới và từ đây học nhân sử dụng như một bảo ấn lớn để hợp nhất niết bàn và sinh tử ?" ngắn gọn, đó là trực nhận được Tánh Bất Nhị của vạn pháp. Đại Thủ Ấn, trong nghĩa trên, chính là một pháp đốn ngộ. Bản Việt dịch của Nguyên Giác dựa theo bản Anh dịch của James Low trong cuốn Simply Being: Texts in the Dzogchen Tradition, nhà xuất bản Vajra Press, London, 1998.
Một cách đơn giản, lúc lâm chung, thái độ quen thuộc lâu dài thường ưu tiên và trực tiếp ảnh hưởng đến sự tái sinh. Cùng lý do này, những sự vướng mắc, chấp trước mạnh mẽ thì tự nó sinh khởi, từ đó một người sợ hãi rằng tự người ấy đang trở nên không tồn tại (họ sợ rằng chết là hết, vì mối lo sợ ấy dẫn đến tái sinh). Sự chấp trước này phục vụ như sự liên kết đến trạng thái trung gian giữa những đời sống (thân trung ấm), sự ưa mến một thân hình, trong sự chuyển biến, hành động như một nguyên nhân thiết lập thân thể của sự tồn tại trung gian.
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà, điều đó được nói trong 48 lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng (Dharmakara), tiền thân của Ngài...